Những điểm mới về giao dịch dân sự của Bộ luật Dân sự năm 2015

nhung-diem-moi-ve-giao-dich-dan-su

Một trong những điểm mới nổi bật của Bộ luật dân sự năm 2015 chính là các quy định về giao dịch dân sự. Điều này cũng rất dễ lý giải bởi tầm quan trọng của chế định này: Đối với khoa học pháp luật dân sự giao dịch dân sự  là một trong những căn cứ phổ biến nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Trên thực tế, giao dịch dân sự được coi là công cụ đắc lực giúp nền kinh tế hàng hóa được phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, các quy định về điều kiện có hiệu lực, hình thức của giao dịch dân sự, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu…đang ngày càng bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý. Trong quá trình xây dựng BLDS năm 2015, giao dịch dân sự là một trong các nội dung được quan tâm sửa đổi nhiều nhất.

Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về giao dịch dân sự tại Phần Một, Chương VIII, từ Điều 116 đến Điều 133; so với Bộ luật dân sự năm 2005, quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 có một số điểm thay đổi:                                             

1. Về vị trí, cấu trúc

BLDS năm 2005 quy định giao dịch dân sự trước khi quy định về tài sản; BLDS năm 2015 tách quy định về tài sản độc lập với quy định về quyền sở hữu và được quy định tại phần chung, chính vì vậy mà giao dịch dân sự được quy định sau phần quy định về tài sản. Sự thay đổi này theo người viết là hoàn toàn hợp lý vì tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự, việc quy định như hiện nay sẽ thể hiện được tính logic giữa các chế định trong Bộ luật dân sự, khắc phục được hạn chế trong quy định của BLDS năm 2005 dẫn đến cách hiểu tài sản chỉ là đối tượng của quyền sở hữu. BLDS năm 2015 không thêm, bớt số lượng các điều luật khi quy định về giao dịch dân sự, nhưng có sự hoán đổi vị trí các điều khoản. Ví dụ: điều khoản “thời hiệu khởi kiện giao dịch dân sự vô hiệu” được quy định sau điều khoản về giao dịch dân sự vô hiệu, người viết cũng cho rằng sự dịch thay đổi này là hợp lý giúp các quy định trở nên gắn logic và hợp lý hơn.

2. Điểm mới trong quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự                       

Điều luật quy định về định nghĩa giao dịch dân sự không có sự thay đổi, nhưng quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có nhiều đổi mới.  Về cách sử dụng thuật ngữ: Bộ luật dân sự năm 2005 sử dụng thuật ngữ “người” khi quy định điều kiện về năng lực chủ thể và điều kiện về tính tự nguyện khi tham gia giao dịch. Ví dụ: “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự” và: “người tham gia giao dịch phải hoàn toàn tự nguyện”.  BLDS năm 2015 thay thế thuật ngữ “người” bằng thuật ngữ “chủ thể”.  Theo người viết sự thay đổi thuật ngữ là phù hợp vì: so với thuật ngữ “người”, thuật ngữ “chủ thể” mang tính bao quát hơn, theo đó điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được áp dụng với tất cả các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm cá nhân, pháp nhân và các tổ chức không có tư cách pháp nhân, nhà nước… trong khi trước đây thuật ngữ “người” thường “bị” hiểu chỉ là cá nhân.

Điều kiện về năng lực chủ thể: BLDS năm 2005 quy định để giao dịch dân sự có hiệu lực, người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch đó phải “có năng lực hành vi dân sự”. Ví dụ: Cá nhân tham gia xác lập giao dịch thì cá nhân đó phải từ 6 tuổi trở lên, đối với pháp nhân và các chủ thể khác phải được thành lập một cách hợp pháp, có tư cách chủ thể … Nhưng theo quy định của BLDS năm 2015, chủ thể muốn xác lập giao dịch dân sự phải có hai yếu tố trong năng lực chủ thể bao gồm: (1) “có năng lực pháp luật dân sự”; (2) “năng lực hành vi dân sự” và khả năng đó phải “phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” . Quy định này hoàn toàn mới và hợp lý, theo đánh giá của tác giả quy định này nhằm khắc phục tình trạng: một chủ thể có năng lực hành vi dân sự nhưng không có năng lực pháp luật dân sự, hoặc năng lực pháp luật dân sự của chủ thể đó bị hạn chế[1] mà vẫn suy đoán được xác lập giao dịch dân sự. Ví dụ: theo quy định của BLDS năm 2005, A (18 tuổi) có năng lực hành vi dân sự, theo quy định của BLDS năm 2005 A được xác lập mọi giao dịch dân sự trong phạm vi tài sản mà A có, trừ những giao dịch dân sự mà pháp luật cấm, tuy nhiên bên cạnh đó có rất nhiều giao dịch dân sự mà A chỉ có năng lực hành vi dân sự thì chưa đủ, theo quy định của pháp luật A không có đủ điều kiện để được tham gia. Ví dụ như A không được xác lập các giao dịch cho vay ngoại tệ, các hợp đồng cung ứng dịch vụ pháp lý, dịch vụ chăm sóc sức khỏe…hoặc trường hợp A có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng A không thuộc diện được thuê nhà công vụ theo quy định tại Điều 32, Luật Nhà ở năm 2014 thì A không thể ký kết hợp đồng thuê nhà công vụ. 

Việc BLDS năm 2015 quy định chủ thể phải có đầy đủ hai yếu tố về năng lực mới được xác lập giao dịch dân sự là hoàn toàn hợp lý, quy định này không nhằm thắt chặt hay mang tính “làm khó” mà ngược lại có tác dụng “sàng lọc” các chủ thể có khả năng thực sự tham gia vào các giao dịch dân sự, từ đó tạo “sức sống” bền vững, tăng “tuổi thọ” cho các giao dịch dân sự, điều này là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, thuật ngữ “chủ thể” ở đây được hiểu là người trực tiếp tham gia xác lập hay cả người tham gia giao dịch gián tiếp thông qua người đại diện?

Ngoài ra, việc quy định chủ thể khi tham gia vào các giao dịch dân sự phải có cả năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự dường như có chút mâu thuẫn đối với Luật doanh nghiệp năm 2014 “khi doanh nghiệp thấy có cơ hội kinh doanh, đồng thời thấy mình đáp ứng được điều kiện kinh doanh, doanh nghiệp có thể tiến hành kinh doanh ngay. Đồng thời, doanh nghiệp gửi thông báo bổ sung ngành, nghề kinh doanh để cơ quan đăng ký kinh doanh ghi nhận theo đúng quy định.”[2]Quy định này của Luật doanh nghiệp có thể hiểu pháp nhân thương mại vẫn có thể tiến hành kinh doanh, ký kết các giao dịch – hợp đồng ngay trong lĩnh vực chưa đăng ký (chưa có năng lực pháp luật) sau đó mới cần thông báo bổ sung ngành nghề kinh doanh mới trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, như vậy tại thời điểm xác lập giao dịch pháp nhân đó đâu có năng lực pháp luật trong lĩnh vực mới?

Điều kiện về tính tự nguyện của các chủ thể: BLDS năm 2015 đổi vị trí điều kiện này lên trước điều kiện về nội dung và mục đích của giao dịch dân sự. Phải chăng tính tự nguyện được đề cao hơn nội dung? Theo người viết nhận thấy chỉ cần giao dịch vi phạm một trong các điều kiện bất kỳ thì giao dịch đó sẽ không phát sinh hiệu lực. Người viết cho rằng “điểm mới” này là không cần thiết. Điều kiện về nội dung và mục đích của giao dịch dân sự:  BLDS năm 2015  có một sự sửa đổi thuật ngữ “vi phạm pháp luật” thành “vi phạm luật”. Sự thay đổi này đồng nghĩa với việc hoạt động “rà soát” tính hợp pháp của nội dung và mục đích  giao dịch dân sự sẽ nhẹ nhàng hơn do không cần phải đối chiếu quy định toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật mà chỉ cần xem xét quy định của “luật”[3]. Nhưng quy định này liệu đã hợp lý vì nếu giao dân sự có nội dung và mục đích không vi phạm “luật” mà vi phạm văn bản hướng dẫn “luật” như nghị định, nghị quyết thì giao dịch dân sự đó có hiệu lực không? Bên cạnh đó, quy định này vẫn chưa khắc phục được nhược điểm mà nhiều chuyên gia trước đây đã chỉ ra: việc sử dụng liên từ “và” cho thấy chỉ khi cả nội dung và cả mục đích của giao dịch dân sự đều vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội thì giao dịch dân sự mới vô hiệu. Như vậy, dẫn đến cách hiểu nếu một giao dịch dân sự có  nội dung không vi phạm điều cấm nhưng có mục đích vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội vẫn sẽ phát sinh hiệu lực? Ví dụ: A viết di chúc cho C hưởng di sản thừa kế với điều kiện C phải bỏ người yêu. Với quy định pháp luật hiện nay, giao dịch dân sự do A xác lập vẫn phát sinh hiệu lực. Giải pháp khắc phục tình trạng này đó là thay thế liên từ “và” bằng liên từ “hoặc” theo đó: “Mục đích hoặc nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”.

Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự

BLDS năm 2015 giữ nguyên quy định giao dịch dân sự có thể biểu đạt nội dung qua ba dạng hình thức: lời nói, văn bản hoặc hành vi. Trong đó, giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu chỉ được coi là giao dịch bằng văn bản khi tuân thủ theo “quy định của pháp luật về giao dịch điện tử[4].  Quy định mang tính chất bổ sung này khắc phục được sự băn khoăn trước đây khi các chủ thể lựa chọn phương tiện điện tử để xác lập giao dịch, họ không biết kết nối nào được coi là giao dịch bằng văn bản ? Quy định này cũng đáp ứng được nhu cầu của thị trường khi ngày càng nhiều các giao dịch dân sự được xác lập thông qua phương tiện điện tử do các ưu điểm mà hình thức này mang lại như nhanh chóng, chính xác, bảo mật, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc, và công sức của các chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự, hoàn toàn phù hợp với xu thế hội nhập của nền kinh tế thị trường và một thế giới “phẳng” của thời đại công nghệ như hiện nay. Mặc dù, vai trò, vị trí của điều kiện về “hình thức” gần như không thay đổi nhưng quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm hình thức lại có nhiều quy định mang tính “chuyển đổi” lớn trong BLDS năm 2015.

3. Điểm mới trong quy định về giao dịch dân sự vô hiệu

Định nghĩa về giao dịch vô hiệu: tại Điều 122, BLDS năm 2015 bổ sung ngoại lệ “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”. Quy định này ghi nhận các ngoại lệ như ngay cả khi vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực tại Điều 117, LDS năm 2015 thì giao dịch dân sự cũng có thể không vô hiệu. Ví dụ như: Điều 125, Điều 129, BLDS năm 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức…hay được hiểu là giao dịch dân sự vẫn vô hiệu ngay cả khi không vi phạm một trong số các điều kiện kể trên. Ví dụ như: Điều 408, BLDS năm 2015 quy định hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được?

Các loại giao dịch dân sự vô hiệu cũng có nhiều thay đổi:

Điều 123, BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của “luật”, trái đạo đức xã hội. Những giao dịch dân sự có nội dung và mục đích vi phạm luật, vi phạm đạo đức xã hội sẽ mặc nhiên vô hiệu. Quy định này có sự thay đổi thuật ngữ “luật” thay thế thuật ngữ “pháp luật”; trong định nghĩa về “đạo đức xã hội” bỏ cụm từ “giữa người với người” theo đó: “đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng tôn trọng và thừa nhận”, sự thay đổi này không mang nghĩa đối lập mà chỉ tạo “sự gọn gàng” cho quy phạm định nghĩa của bộ luật.

Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định tại Điều 124, BLDS năm 2015 bổ sung cụm từ “hoặc luật khác có liên quan” theo đó giao dịch dân sự bị che giấu có thể cũng vô hiệu theo quy định của BLDS năm 2015  hoặc theo quy định của văn bản luật khác. Quy định này mở rộng phạm vi trường hợp giao dịch bị che giấu sẽ vô hiệu nếu vi phạm các quy định của văn bản pháp luật khác ngoài BLDS. Tuy nhiên, nó lại không có sự thống nhất trong các quy định của BLDS năm 2015, giao dịch bị che giấu cũng là giao dịch dân sự vậy tại sao hiệu lực của giao dịch dân sự chỉ phụ thuộc vào “các điều kiện được quy định tại Điều 117” Bộ luật này, còn hiệu lực của “giao dịch bị che giấu” lại phụ thuộc vào quy định của luật khác? Để cho thống nhất, người viết cho rằng cần xem xét lại Điều 117 hoặc Điều 124 của BLDS năm 2015.

Điều 125, BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có bổ sung quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do “người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi xác lập”[5]. Điểm mới này không làm cho người viết cảm thấy phù hợp bởi lẽ:  khi BLDS năm 2015 bổ sung một nhóm chủ thể có “vấn đề” về năng lực hành vi dân sự thì cần quy định rõ nhóm người này khác gì với người mất năng lực hành vi dân sự, người hạn chế năng lực hành vi dân sự; hậu quả pháp lý đối với những giao dịch dân sự mà họ xác lập khác gì với hậu quả pháp lý do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện? Những người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi cũng cần được tòa án công nhận, thông qua nhiều thủ tục nhưng người viết chưa thấy có sự khác biệt nào trong quy định về phạm vi quyền, nghĩa vụ của nhó người này khi tham gia vào các chế định trong đó có giao dịch dân sự. Ngoài ra, BLDS năm 2015 quy định các giao dịch phải do người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự “xác lập, thực hiện hoặc đồng ý” bao gồm: đối với cá nhân chưa đủ sáu tuổi hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự là mọi giao dịch dân sự; với người từ đủ sáu tuổi đến dưới mười lăm tuổi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là những giao dịch không phải giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, với cá nhân từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi là những giao dịch dân sự “liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký”. Nhưng giao dịch dân sự nào của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi buộc phải do người đại diện của người này xác lập, thực hiện hoặc đồng ý thì BLDS năm 2015 chưa quy định tại Điều 23. Giải pháp đặt ra đó là: cần quy định rõ phạm vi những giao dịch dân sự mà nhóm người có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi được thực hiện, không được thực hiện giống như cách thức đã thực hiện tại các Điều 21,22,24 của Bộ luật này để khi giải quyết tranh chấp tòa án có cơ sở pháp lý rõ ràng để xác định giao dịch dân sự nào vô hiệu, giao dịch dân sự nào không.

Một trong những điểm mới của BLDS năm 2015 đó là quy định những giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện sẽ không vô hiệu khi thuộc vào một trong các trường hợp sau:

Trường hợp thứ nhất: “Giao dịch dân sự do người chưa đủ tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu, hàng ngày của người đó[6]. Ví dụ như những nhu cầu: ăn, ở, mặc, học tập. Đây là những nhu cầu mà họ thực sự “cần” và có thể tự mình xác lập, có giá trị nhỏ chứ không phải những giao dịch dân sự mà họ “muốn”. 

Trường hợp thứ hai: “Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ.” Quy định này của BLDS năm 2015 là quy định hoàn toàn mới, theo Điều 21, Điều 22, Điều 130 BLDS năm 2005 cá nhân dưới 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự sẽ không được xác lập bất cứ giao dịch dân sự nào, mọi giao dịch dân sự của những người này đều phải do người đại diện xác lập và thực hiện mà không có ngoại lệ, dẫn đến một thực trạng bất hợp lý đó là ngay cả những giao dịch chỉ có mục đích mang lại quyền, lợi ích hợp pháp cho mình, họ cũng không được tham gia xác lập, với lý thuyết này: A 5 tuổi được người thân tặng cho tài sản A cũng không được trực tiếp nhận mà phải thông qua người đại diện là cha, mẹ hoặc người giám hộ; quy định này đôi lúc không đảm bảo quyền lợi cho những người không có năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự. BLDS năm 2015 đã cho phép những người như A, những người bị mất năng lực hành vi dân sự được xác lập các giao dịch dân sự có mục đích xác lập quyền, miễn nghĩa vụ cho chính họ. Nhưng quy định mới này gặp một vài vấn đề về cách diễn đạt “giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên…..với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ”, hai liên từ “với” trong một câu khiến nội dung của Điểm b, Khoản 2 Điều 125, BLDS năm 2015 trở nên tối nghĩa. Và cũng dẫn đến hai cách hiểu về nội dung của điều luật này: (1) Cách hiểu thứ nhất: điều luật muốn nhấn mạnh rằng để có hiệu lực thì mục đích của giao dịch phải nhằm xác lập quyền dân sự hoặc miễn trừ nghĩa vụ dân sự cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và giao dịch dân sự đó chỉ có hiệu lực với những người đã trực tiếp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với những người này, mà không liên quan đến người thứ ba. (2) Cách hiểu thức hai: để được công nhận giá trị hiệu lực giao dịch dân sự đó phải đồng thời xác lập quyền, miễn nghĩa vụ cho cả người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và xác lập quyền, miễn nghĩa vụ cho cả chủ thể tham gia vào giao dịch với họ. Theo người viết, cách hiểu thứ nhất là hợp lý hơn vì gần như không có giao dịch nào trên thực tế thỏa mãn được cách hiểu thứ hai. Do vậy, giải pháp khắc phục cho quy định này đó là cần diễn đạt lại, theo đó điểm b, Khoản 2, Điều 125, BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự có mục đích chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi dân sự. Giao dịch chỉ phát sinh hiệu lực với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ”.       

Trường hợp thứ ba: “Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.” Theo điểm c, Khoản 1, Điều 125, BLDS năm 2015, thì những giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ được hành vi có thể có hiệu lực nếu khi người xác lập hoàn thiện năng lực chủ thể, khôi phục năng lực hành vi “thừa nhận”. Một câu hỏi đặt ra là: Trong thời gian người xác lập chưa có năng lực hoặc chưa được hồi phục năng lực người giám hộ, người đại diện, người có quyền và lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được không? Nếu người đại diện được phép yêu cầu, giao dịch dân sự đã bị Tòa án tuyên vô hiệu, khi chủ thể xác lập giao dịch đã thành niên hoặc khôi phục năng lực hành vi dân sự muốn thừa nhận thì giao dịch dân sự đó có phát sinh hiệu lực không? Nếu không thì quy định này sẽ trở nên “thừa thãi” vì không biết khi nào người mất năng lực hành vi dân sự mới khôi phục năng lực, chủ thể xác lập giao dịch dân sự với họ phải chờ đến bao giờ?

Điều 126, BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự do hiệu do bị nhầm lẫn. Trường hợp này có sự thay đổi về cách diễn đạt sự “nhầm lẫn”. BLDS năm 2015 quy định: “giao dịch dân sự xác lập có sự nhầm lẫnlàm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch”. Theo đó, dấu hiệu xác định “nhầm lẫn” không phụ thuộc vào yếu tố “lỗi vô ý” mà phụ thuộc vào kết quả chủ thể tham gia giao dịch dân sự có đạt được mục đích hay không. Quy định này sẽ dẫn đến nhiều tranh chấp phát sinh khi các bên không thỏa thuận trước về mục đích xác lập giao dịch dân sự, làm thế nào có thể xác định được chủ thể đó đã đạt được mục đích của mình hay chưa? Hệ quả của quy định này rất có thể sẽ tạo cơ hội cho một số chủ thể không thiện chí, hợp tác, xác lập giao dịch rồi không muốn thực hiện giao dịch làm ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể tham gia giao dịch dân sự với người đó. Bên cạnh đó, điều luật này lại gặp phải lỗi về cách diễn đạt, câu cú không có chủ ngữ “ai? cái gì?”…  làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích? Theo quan điểm của người viết cần giữ nguyên kết cấu của quy định cũ “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia xác lập giao dịch có sự nhầm lẫn làm cho …” thì sẽ hợp lý hơn.

Điều 127, BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do người bị lừa dối, bị đe dọa và có bổ sung trường hợp người xác lập giao dịch bị “cưỡng ép” thì vô hiệu. “Cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt thiệt hại về tính mạng, sức khỏe…của mình hoặc của người thân thích của mình”. Cụm từ “người thân thích”[7] được sử dụng thay thế cho cụm từ “hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” trong BLDS năm 2005. Quy định này mang tính khái quát và hợp lý hơn cách liệt kê như BLDS năm 2005; đồng thời mang tính bao quát, mở rộng phạm vi nhóm người chịu sự tác động của lời đe dọa, cưỡng ép; khắc phục hạn chế của quy định cũ. Nếu trước đây khi ông, bà, cô, dì, chú, bác của một người bị người khác đe dọa, vì lo sợ cho tính mạng của người thân mà người này xác lập giao dịch sau đó dù muốn khởi kiện kẻ đã đe dọa, cưỡng ép mình thì người xác lập, thực hiện giao dịch cũng gặp rất nhiều khó khăn do thiếu căn cứ pháp lý nhưng sự thay đổi trên của BLDS năm 2015 đã khắc phục được, người đó đã có thể khởi kiện người đã “buộc” họ phải xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập, không nhận thức và làm chủ hành vi của mình; Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần được giữ nguyên tại Điều 128, Điều 130  BLDS năm 2015.

Điểm mới được đánh giá là nổi bật nhất chính là quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức. BLDS năm 2005 quy định khi hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực bắt buộc mà các bên chủ thể vi phạm, theo yêu cầu của một bên hoặc các bên cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ấn định một khoảng thời gian, khi hết khoảng thời gian đó mà các bên không hoàn thiện hình thức Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu. BLDS năm 2015 quy định rõ hơn hình thức được coi là điều kiện có hiệu lực của giao dịch là hình thức bằng văn bản mà không còn được hiểu chung chung. Nếu giao dịch dân sự đã được thể hiện dưới dạng văn bản nhưng văn bản đó vẫn chưa đúng theo quy định, nhưng một hoặc các bên chủ thể đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ của giao dịch thì theo yêu cầu của một trong số các chủ thể giao dịch có thể được Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực; ngay cả trường hợp giao dịch buộc phải công chứng, chứng thực nhưng các bên thực hiện chưa đúng khi Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực thì các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực nữa.  Ví dụ: Khoản 1, Điều 502, BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Quy định này khắc phục được hạn chế tồn tại phổ biến hiện nay tại Việt Nam, ví dụ như vụ án mà người viết sưu tầm: A cho B mượn nhà, nhưng sau đó vì cần tiền A đã dùng nhà đem thế chấp ngân hàng nhưng rơi vào tình trạng nợ nần quá nhiều khiến B phải cho A vay tiền để trả ngân hàng. A gợi ý bán nhà cho B. Sau khi thỏa thuận, A và B đã lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ chữ ký của các bên nhưng không đem đi công chứng, chứng thực. Đang trong quá trình thực hiện việc sang tên, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho B thì A lại làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch mua bán nhà vô hiệu. Qua các cấp xét xử, Tòa án đều chung một kết luận giao dịch dân sự giữa A và B vô hiệu, mặc dù hợp đồng mua bán nhà là có thực nhưng đây là loại giao dịch pháp luật quy định phải công chứng, chứng thực. Thực tế khi đã áp dụng Điều 134, BLDS năm 2005, tòa án đã buộc A và B thực hiện các thủ tục về hình thức của hợp đồng mua bán căn nhà trong một tháng nhưng vì muốn lấy lại căn nhà nên A đã không thực hiện việc này. Việc khắc phục vi phạm về hình thức chỉ thực hiện được khi có sự hợp tác của cả hai bên chủ thể, nhưng thực tế cho thấy vì lợi ích trước mắt của mình A sẵn sàng “bồi thường thiệt hại khi có lỗi làm cho giao dịch dân sự vô hiệu”. Vì biến động của giá nhà đất, sự bội ước có thể mang cái lợi nhiều hơn rất nhiều so với việc phải bồi thường. Vì vậy, việc khắc phục vi phạm về hình thức hợp đồng không thể thực hiện được, tòa án buộc phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu, buộc B phải trả lại căn nhà cho A và A trả lại tiền bán căn nhà cho B. Quy định này đã và đang tỏ ra không đem lại kết quả như mong muốn của nhà làm luật. Khi đó, tòa án lại là nơi mà những người bội ước như A lạm dụng đưa ra các yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu với lý do hợp đồng chưa tuân thủ về mặt hình thức để đạt được mục đích. Và do phải tuân thủ pháp luật nên khi căn cứ vào quy định của BLDS năm 2005 tòa án đã buộc phải ủng hộ sự bội ước của A và không đem lại công lý cho B.[8] Quy định mới này cũng đã được khắc phục nhược điểm khi giao dịch dân sự đã thực hiện được hai phần ba nghĩa vụ của mình với A thì dù hợp đồng chưa được công chứng nó vẫn được tòa án công nhận và thậm chí các chủ thể cũng không cần phải đi công chứng, chứng thực hợp đồng. Quyền lợi của những người như B đã được bảo vệ, sự ổn định của giao dịch dân sự được bảo toàn.    Tuy nhiên, người viết thắc mắc “hai phần ba nghĩa vụ” là thuật ngữ định lượng giá trị nghĩa vụ hay số lượng nghĩa vụ cần phải thực hiện trong giao dịch dân sự?              

Về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu: So sánh Điều 131, BLDS năm 2015  với Điều 137, BLDS năm 2005 có thể thấy BLDS mới diễn giải hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu cụ thể theo từng khoản. Điều luật mới thay thế quy định “trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức bị tịch thu theo quy điịnh của pháp luật” bằng quy định tại khoản 3 “bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó”. Và xây dựng mới khoản 5 “việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”. Quy định mới này đã hoàn thiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các chủ thể hợp pháp khi giao dịch dân sự bị vô hiệu, trước đây khi giao dịch dân sự vô hiệu, nhà lập pháp chỉ chú trọng đến việc những người có liên quan sẽ bị ảnh hưởng gì về tài sản mà không chú trọng đến những giá trị nhận thân mà người này phải gánh chịu. Có những trường hợp hậu quả để lại đối với quyền nhân thân của người bị vi phạm khi giao dịch dân sự vô hiệu còn nặng nề hơn rất nhiều, dai dẳng hơn rất nhiều so với những giá trị vật chất bị thiệt hại khác. Ví dụ: Khi giao dịch dân sự bị vô hiệu, uy tín, danh dự của chủ thể tham gia bị ảnh hưởng nặng nề mà không có căn cứ để người bị thiệt hại có thể yêu cầu người vi phạm khăc phục.

4. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

Về mặt thời hạn không có sự thay đổi nhưng thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện thì đã có sự thay đổi. Theo quy định của BLDS năm 2005, thời hiệu bắt đầu được tính “kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập” cho tất cả các giao dịch dân sự có yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Theo quy định của BLDS năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố nhóm giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là 02 năm kể từ ngày người đại diện của người hạn chế năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi; người mất năng lực hành vi dân sự “biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịchhoặcthời điểm người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch dân sự được xác lập do bị nhầm lẫn, bị đe dọa”  hoặc “kể từngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng éphoặc thời điểmngười không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch”; “thời điểm giao dịch được xác lập nhưng vi phạm điều kiện về hình thức”. Đặc biệt, khi kết thúc khoảng thời hiệu trên mà không có yêu cầu thì giao dịch dân sự vẫn có hiệu lực bình thường. Quy định này rất tiến bộ, khắc phục được tình trạng chủ thể tham giao giao dịch dân sự không biết được giao dịch mà mình tham gia có những dấu hiện của một giao dịch dân sự vô hiệu, đến khi quyền và lợi ích của họ bị ảnh hưởng nghiêm trọng họ mới biết thì lúc này thời hiệu khởi kiện đã hết.

5. Quy định về bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 133, BLDS năm 2015 khi giao dịch vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch đó là “tài sản không phải đăng ký” mà không còn là “động sản không phải đăng ký quyền sở hữu” như quy định của BLDS năm 2005, mà tài sản không đăng ký này đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch dân sự với người thứ ba vẫn phát sinh hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167[9], BLDS năm 2015. Quy định dẫn chiếu của điều luật này cho thấy BLDS năm 2015 chưa đạt được sự thống nhất trong cách dùng thuật ngữ, tại Điều 133 thì sử dụng thuật ngữ “tài sản không phải đăng ký” nhưng đến Điều 167 lại dùng thuật ngữ “động sản không phải đăng ký quyền sở hữu”, trong khi phạm vi nội hàm của hai thuật ngữ này là khác nhau[10]. Trường hợp thứ hai, đối với những giao dịch dân sự vô hiệu mà đối tượng của giao dịch là “tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền”, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người thứ ba căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch dân sự đó không bị vô hiệu. Ví dụ: A mượn xe máy B vừa mới mua rồi bán cho C, C đi đăng ký xe sau đó bán cho D, thì giao dịch dân sự của C và D sẽ không vô hiệu, do D căn cứ vào giấy đăng ký xe mà C đã thực hiện. Quy định này khác với Khoản 2, Điều 138, BLDS năm 2005 khi đối tượng của giao dịch là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu thì mọi giao dịch dân sự với người thứ ba ngay tình đều vô hiệu trừ trường hợp ngoại lệ người thứ ba có được tài sản thông qua mua bán đấu giá hoặc người thứ ba ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, bị sửa. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ hai ngoại lệ giống với Khoản 2, Điều 138, BLDS năm 2005. Quy định này đã có sự thay đổi, theo BLDS năm 2005 mọi giao dịch dân sự vô hiệu có đối tượng là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu với người thứ ba đều vô hiệu mặc dù người này “ngay tình”, nhưng quy định của BLDS mới mở ra cho người thứ ba này một cơ hội, nếu tài sản đó đã được đi đăng ký trước khi được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì không vô hiệu. Sự thay đổi này là hoàn hợp lý, vì khi tài sản đã được đăng ký, người có tên trong giấy đăng ký chính là người có các quyền sở hữu và các quyền khác liên quan đến tài sản đã được pháp luật ghi nhận, họ được quyền chuyển giao cho người thứ ba, và việc đăng ký cũng chính là cơ sở pháp lý vững chắc mà người thứ ba căn cứ vào đó để xác lập giao dịch. Quy định này tạo lòng tin, giúp các chủ thể “mạnh dạn” xác lập giao dịch dân sự, “kích cầu” đối với người mua, người nhận tặng cho, tăng tính ổn định cho thị trường chuyển giao tài sản.                                                    

Bên cạnh những quy định mới về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình, BLDS năm 2015 “không quên” bảo vệ quyền của chủ sơ hữu, đây là quy định hoàn toàn mới so với BLDS năm 2005 theo đó chủ sở hữu tài sản sẽ không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình khi giao dịch của người này không vô hiệu nhưng thay vào đó chủ sở hữu tài sản có quyền khởi kiện yêu cầu chủ thể “có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba” phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Quy định này có mục đích hoàn toàn tiến bộ vì người thứ ba ngay tình được mặc nhiên hiểu là họ không có lỗi; nhưng “người có lỗi trong việc dẫn đến giao dịch dân sự được xác lập với người thứ ba” ở đây là ai? Là người trực tiếp xác lập giao dịch dân sự với người thứ ba? Người “trung gian” tác động làm cho giao dịch dân sự này được xác lập, ví dụ như nhân viên môi giới bất động sản… mà không hề biết tài sản là đối tượng của giao dịch với người thứ ba là đối tượng của một giao dịch dân sự đã vô hiệu trước đó có phải hoàn trả chi phí không? Việc hoàn trả chi phí có đồng nghĩa với việc thanh toán giá trị tài sản hay chỉ là chi phí mà chủ sở hữu đã bỏ ra để thực hiện việc kiện đòi? người có lỗi có phải bồi thường không nếu như chủ sở hữu không chứng minh được có thiệt hại xảy ra? Quy định như hiện nay sẽ dẫn đến cách hiểu: khi chủ sở hữu không đòi được tài sản, người này luôn có cơ hội nhận được giá trị tài sản “và tiền bồi thường thiệt hại”. Kiến nghị của người viết trong trường hợp này: thay liên từ “và” bằng liên từ “hoặc”, người có lỗi chỉ phải bồi thường khi người chủ sở hữu không đòi lại tài sản và bị thiệt hại. Và sửa cụm từ “có lỗi” thành “có lỗi cố ý dẫn đến việc giao dịch dân sự được xác lập với người thứ ba”, người đó chỉ phải chịu trách nhiệm khi cố ý chuyển tài sản từ người này, sang người khác, nhằm “tẩu tán” khiến chủ sở hữu không thể đòi lại tài sản thì hợp lý hơn.

6. Các quy định khác có liên quan đến giao dịch dân sự có điều kiện, giải thích giao dịch dân sự

Quy định về giao dịch dân sự có điều kiện: Khoản 2, Điều 120, BLDS năm 2015 có một số thay đổi so với Khoản 2, Điều 125, BLDS năm 2005 thay bằng việc quy định nếu một bên hoặc người thứ ba cố ý cản trở điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự để điều kiện này không thể xảy ra thì BLDS năm 2015 quy định một bên của giao dịch dân sự “cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp” khiến cho điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu “cố ý tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên” làm cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra. Nhìn chung, quy định mới của BLDS năm 2015 được xây dựng dựa trên kết quả của quá trình tiếp nhận ý kiến đóng góp, đánh giá của các nhà khoa học. Do đó, những quy định này đã phần lớn khắc phục được những hạn chế mà BLDS năm 2005 “mắc phải”, nhưng cũng vẫn còn một số điểm chưa hợp lý. Giao dịch dân sự là một chế định quan trọng, những quy định của BLDS năm 2015 về giao dịch dân sự sẽ có tác động trực tiếp và sâu sắc đến nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là tại thời kỳ nước ta mở rộng hội nhập, tích cực tham gia các hiệp định về tự do thương mại hiện nay.

Bộ luật dân sự đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận động của các quan hệ hàng hóa – tiền tệ;tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tinh thần của Hiến pháp 2013, theo đó, mọi cá nhân, tổ chức được làm những gì mà pháp luật không cấm,với điều kiệncác việc làm đó không vi phạm lợi ích công cộng, đạo đức xã hội; Bộ luật dân sự đã có tính tương thích với thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập khắc phục các quy định gò bó, không phù hợp với tính năng động của nền kinh tế thị trường:Ví dụ: theo quy định BLDS năm 2005 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì các giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhiều lý do khiến các quan hệ phát sinh từ hợp đồng không có tính ổn định không đáp ứng yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Bộ luật mới đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến các quy định về giao dịch dân sự theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền tự do thể hiện ý chí, sự an toàn pháp lý, sự ổn định của giao dịch, quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình, cụ thể như:  Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch đã chuyển giao vật, tiền hoặc đã thực hiện công việc thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực; Quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng được sửa đổi để bảo đảm công bằng, phù hợp hơn với quyền, lợi ích của chủ thể xác lập giao dịch; Quyền của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để hơn theo nguyên tắc mới…Bộ luật dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, hệ thống pháp luật dân sự nói riêng; Do vậy, để bảo đảm hiệu quả trong quá trình áp dụng Bộ luật dân sự tác giả có một số ý kiến xung quanh các quy định mới về giao dịch dân sự, hi vọng bài viết có thể góp phần hoàn thiện thêm chế định, đáp ứng nhu cầu hội nhập mở rộng của Việt Nam trong tiến trình mới./.

[1] Xem Điều  18, BLDS năm 2015: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”

[2]https://dangkykinhdoanh.gov.vn/NewsandUpdates/tabid/91/ArticleID/2484/Doanh-nghi%E1%BB%87p-ch%E1%BA%A5p-h%C3%A0nh-quy-%C4%91%E1%BB%8Bnh-v%E1%BB%81-%C4%91i%E1%BB%81u-ki%E1%BB%87n-kinh-doanh-nh%C6%B0-th%E1%BA%BF-n%C3%A0o.aspx truy cập ngày 24.02.2016.

[3] Xem Khoản 2, Điều 11, Luật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2008: “Luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt độngcủa bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân.”

[4] Xe Luật giao dịch điện tử năm

[5] Xem Điều 23, BLDS năm 2015 về người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

[6] Xem Khoản 20, Điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 : “Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình.”

[7] Xem Khoản 19, Điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “ Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.”

[8]http://khaiphong.vn/Phap-Luat-ve-Hop-dong/Coi-chung-vi-pham-hinh-thuc-cua-hop-dong-3859.html. Truy cập ngày 26.02.2016.

[9]Điều 167. Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình

Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu

[10] Xem Điều 106: “Điều 106. Đăng ký tài sản

Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký tài sản.

Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật về đăng ký tài sản có quy định khác.

Việc đăng ký tài sản phải được công khai.”

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon