Các loại hình phạt chính theo Bộ luật Hình sự năm 2015

cac-loai-hinh-phat-chinh-theo-bo-luat-hinh-su

Luật hình sự không thể phát huy vai trò điều tiết các quan hệ xã hội, không thể đi vào cuộc sống nếu thiếu hình phạt. Hình phạt là một thuộc tính không thể thiếu của pháp luật hình sự và là công cụ giúp bảo đảm tính khả thi cũng như nhiệm vụ phòng, chống tội phạm của luật hình sự. Trong nội dung bài viết, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu các loại hình phạt chính theo Bộ luật Hình sự.

Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

1. Các loại hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội

Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam được hình thành từ hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Theo quy định tại Điều 32 BLHS năm 2015, hình phạt chính bao gồm 7 loại hình phạt. Đó là: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.

Hình phạt bổ sung gồm 7 loại hình phạt. Đó là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế, tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính. Trong hệ thống hình phạt, trục xuất và phạt tiền là hai hình phạt vừa có thể được áp dụng là hình phạt chính, vừa có thể được áp dụng là hình phạt bổ sung.

Căn cứ để phân biệt hình phạt chính với hình phạt bổ sung khả năng áp dụng hình phạt đối với mội tội phạm. Cụ thể, hình phạt chính được tuyên độc lập và mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt chính. Ngược lại, hình phạt bổ sung không thể tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm với hình phạt chính và mỗi tội phạm, kèm theo hình phạt chính có thể tuyên một hình phạt bổ sung, có thể tuyên nhiều hình phạt bổ sung hoặc không tuyên hình phạt bổ sung nào.

Các hình phạt chính có thể áp dụng đối với người phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.

2. Cảnh cáo (Điều 34 BLHS năm 2015)

Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước do tòa án áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng chưa đến mức miễn hình phạt. Đây là hình phạt chính nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt, thể hiện sự lên án công khai của Nhà nước đối với người phạm tội về hành vi của họ. Hình phạt cảnh cáo không gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng hay quyền tự do thân thể của người bị kết án nhưng nó tác động lên tinh thần người bị kết án để răn đe, giáo dục họ.

Theo quy định tại Điều 34 BLHS năm 2015 thì chỉ áp dụng hình phạt cảnh cáo với người phạm tội nếu thỏa mãn những điều kiện sau: Một là, tội phạm mà người đó thực hiện là tội ít nghiêm trọng. Tội ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm. Hai là, tội phạm mà người đó thực hiện có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Nhiều tình tiết giảm nhẹ tức là có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên. Những tình tiết này có thể là những tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nhưng cũng có thể là những tình tiết giảm nhẹ khác đã được tòa án ghi trong bản án. Ba là, tội phạm mà người đó thực hiện chưa đến mức miễn hình phạt. Tức là mặc dù người phạm tội thực hiện tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng xét thấy vẫn cần phải có biện pháp cưỡng chế nhất định tác động đến người phạm tội để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, giúp phòng ngừa, răn đe và giáo dục người phạm tội.

2. Phạt tiền (Điều 35 BLHS năm 2015)

Phạt tiền là hình phạt có tính chất kinh tế nhằm vào tài sản của người phạm tội, nó tước đi quyền lợi vật chất của người bị kết án, tác động đến tình trạng tài sản của họ và thông qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội. Hình phạt tiền khi áp dụng với một số tội phạm có tác dụng thiết thực, vừa giảm tải trong các trại giam do việc áp dụng quá nhiều hình phạt tù, vừa bảo đảm tính khả thi của bản án. Mặt khác, lại có tác dụng sung công quỹ Nhà nước một lượng tiền nhất định mà vẫn bảo đảm được mục đích của hình phạt. Theo quy định của luật hình sự Việt Nam, phạt tiền là hình thức hình phạt có thể áp dụng là hình phạt chính hoặc có thể áp dụng là hình phạt bổ sung.

Khi là hình phạt chính, phạt tiền được áp dụng đối với những người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định hoặc có thể áp dụng đối với người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do BLHS quy định.

Khi là hình phạt bổ sung, phạt tiền được áp dụng đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội khác do BLHS quy định.

Về mức phạt tiền được quyết định căn cứu vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.

3. Cải tạo không giam giữ (Điều 36 BLHS năm 2015)

Trong hệ thống hình phạt, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có tính chất nghiêm khắc hơn so với hình phạt cảnh cáo và phạt tiền nhưng nhẹ hơn hình phạt tù. Hình phạt cải tạo không giam giữ không tước hoàn toàn quyền tự do của người bị kết án, không buộc người bị kết án cách ly khỏi xã hội mà vẫn tạo điều kiện cho người bị kết án hòa nhập với cộng đồng nhưng trong những điều kiện nhất định, dưới sự giám sát, giáo dục của gia đình và cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương.

Hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do BLHS quy định và người bị kết án có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Thời hạn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là từ 6 tháng đến 3 năm. Trong trường hợp người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 1 ngày tạm giam, tạm giữ bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ.

Sau khi kết án, tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức, Ủy ban nhân dấn cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập tù 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 4 giờ trong một ngày và không quá 5 ngày trong một tuần.

4. Trục xuất (Điều 37 BLHS năm 2015)

Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trục xuất là hình phạt chỉ áp dụng đối với người nước ngoài, tức là người không có quốc tịch Việt Nam. Sau khi bị tòa án tuyên hình phạt trục xuất, người bị kết án có nghĩa vụ phải rời khỏi lãnh thổ VN đúng thời hạn.

Tuy nhiên, người bị trục xuất có thể được kéo dài thời hạn rời khỏi lãnh thổ Việt Nam nếu thuộc một trong các trường hợp sau: Người đó đang ốm nặng, đang phải cấp cứu hoặc vì lý do sức khỏe mà không thể đi lại được và được cơ quan y tế hoặc bệnh viện từ cấp tỉnh trở lên chứng nhận; phải chấp hành các hình phạt khác hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam; có lý do chính đáng khác cản trở việc rời khỏi lãnh thổ Việt Nam được thủ trưởng cơ quan quản lý xuất nhập cảnh xác nhận. Trục xuất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung tùy theo trường hợp được tòa án áp dụng.

5. Tù có thời hạn (Điều 38 BLHS năm 2015)

Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Có thể nói, tù có thời hạn là hình phạt mang tính phổ biến và được luật hình sự Việt Nam quy định áp dụng đối với hầu hết các tội phạm cụ thể trong BLHS. Đây là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt cải tạo không giam giữ bởi sự hạn chế tự do của người bị kết án.

Thời hạn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 3 tháng, tối đa là 20 năm. Trong trường hợp phạm nhiều tội thì mức tối đa là 30 năm. Trường hợp nếu người bị kết án đã bị tạm giam, tạm giữ thì thời gian đó được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn, cứ 1 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 1 ngày tù.

Hình phạt này không áp dụng đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

6. Tù chung thân (Điều 39 BLHS Năm 2015)

Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.

Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự Việt Nam, tù chung thân là hình phạt rất nghiêm khắc, chỉ nhẹ hơn hình phạt tử hình. Cũng giống như hình phạt tù có thời hạn, hình phạt tù chung thân tước tự do của người bị kết án, cách ly họ khỏi xã hội để giáo dục, cải tạo và phòng ngừa tội phạm nhưng mức độ nghiêm khắc hơn thể hiện ở chỗ sự tước tự do của tù chung thân là không có thời hạn, nghĩa là nó có khả năng tước tự do của người bị kết án đến hết đời.

Hình phạt tù chung thân chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

7. Tử hình (Điều 40 BLHS năm 2015)

Tử hình là hình phạt tước bỏ quyền sống của người bị kết án áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định.

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt. Tuy nhiên, loại hình phạt này không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

Hình phạt tử hình cũng không thi hành đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên hoặc người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Trong những trường hợp này, hình phạt tử hình được chuyển thành hình phạt tù chung thân.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon