Căn cứ xác lập quyền dân sự

can-cu-xac-lap-quyen-dan-su

Khi tham gia quan hệ pháp luật, các chủ thể có quyền và nghĩa vụ nhất định. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự khác nhau sẽ dẫn đến quyền dân sự khác nhau. Theo đó, dưới góc độ pháp luật, quyền dân sự và căn cứ xác lập quyền dân sự sẽ được tôn trọng, bảo vệ và là cơ sở để phát sinh quan hệ pháp lý nhất định. Vậy pháp luật quy định như thế nào về quyền dân sự, căn cứ xác lập quyền dân sự? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Cơ sở pháp lý:

1. Quyền dân sự là gì? Căn cứ xác lập quyền dân sự là gì?

1.1. Quyền dân sự

Hiện nay, không có quy định cụ thể về quyền dân sự là gì, tuy nhiên dựa theo quy định tại Điều 2, Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền dân sự có thể hiểu là quyền của công dân hoặc pháp nhân được pháp luật dân sự công nhận, bảo vệ, tôn trọng và bảo đảm quyền dân sự.

Mỗi chủ thể sẽ có quyền dân sự khác nhau, được thực hiện dựa trên ý chí của mình, nhưng không được trái quy định của pháp luật. Quyền dân sự bao gồm: quyền nhân thân, quyền tài sản và các quyền khác như quyền có nơi cư trú, quyền được giám hộ và giám hộ, được đại diện, uỷ quyền,…

1.2. Căn cứ xác lập quyền dân sự

Căn cứ xác lập quyền dân sự là cơ sở làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định, phát sinh quyền dân sự của các chủ thể.

Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2015, căn cứ xác lập quyền dân sự bao gồm: Hợp đồng; Hành vi pháp lý đơn phương; Quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật; Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ; Chiếm hữu tài sản; Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật; Thực hiện công việc không có ủy quyền; Căn cứ khác do pháp luật quy định.

2. Quy định pháp luật về căn cứ xác lập quyền dân sự

2.1. Hợp đồng

Hợp đồng là một cam kết giữa hai hay nhiều bên để làm hoặc không làm một việc nào đó trên khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng thường gắn với các dự án. Dưới góc độ pháp luật, hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.

Hợp đồng có thể được thể hiện dưới các hình thức như: văn bản, lời nói hoặc hành vi.

Trong một hợp đồng được thể hiện bằng văn bản, thông thường sẽ có các nội dung như sau: Tên, thông tin địa chỉ của các bên; Thông điệp nêu rõ sự đồng ý trên thoả thuận; Nội dung và phạm vi công việc; Giá cả và số lượng hàng hoá; Quy cách hàng hoá; Thời điểm và phương thức giao hàng; Phương thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng và Toà án giải quyết tranh chấp; Điều khoản về bảo mật thông tin; Các điều khoản chung và thời hiệu hợp đồng.

Một số dạng hợp đồng như: Hợp đồng mua bán hàng hoá; Hợp đồng bảo hiểm; Hợp đồng phân phối, đại lý và trung gian,…

2.2. Hành vi pháp lý đơn phương

Hành vi pháp lý đơn phương là một dạng của giao dịch dân sự, trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ. Lưu ý là bên kia có thể tham gia hoặc không tham gia giao dịch. Điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan hoặc khách quan.

Ví dụ: Lập di chúc, từ chối hưởng quyền thừa kế, hứa thưởng, thi có giải,…

Điều kiện có hiệu lực của hành vi pháp lý đơn phương:

  • Được xác lập bởi ý chí của một bên chủ thể duy nhất
  • Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch được xác lập
  • Chủ thể tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện
  • Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội
  • Trong một số trường hợp cần đáp ứng điều kiện về hình thức
  • Không thuộc trường hợp bị vô hiệu.

2.3. Quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền

Theo quy định tại Điều 235 Bộ luật dân sự năm 2015 thì “Quyền sở hữu có thể được căn cứ vào các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.” Quyền dân sự và quyền sở hữu của một chủ thể còn có thể được xác lập theo thời hiệu khi có các điều kiện do pháp luật quy định như trường hợp người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì người ấy trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp BLDS năm 2015, luật khác có liên quan quy định khác. Khi đó quyền dân sự và quyền sở hữu sẽ được xác lập và được công nhận kể từ thời điểm người đó bắt đầu chiếm hữu.

Một số trường hợp như tịch thu tài sản, trưng mua,… thì mặc dù chấm dứt quyền sở hữu đối với một chủ thể nhất định nhưng đó lại là căn cứ làm phát sinh quyền dân sự và quyền sở hữu của Nhà nước.

Như vậy, có thể thấy căn cứ xác lập quyền dân sự có thể là quyết định của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định của luật hoặc thời hạn. Đây là căn cứ xác lập quyền dân sự khá đặc trưng, bởi lẽ quyết định của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác là kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp, yêu cầu của đương sự,..nó có tính bắt buộc đối với các bên và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.

2.4. Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Theo quy định tại Điều 222 Bộ luật dân sự năm 2015 : “Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó. Người tiến hành hoạt động sáng tạo có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ hoạt động sáng tạo theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ”.

Căn cứ để xác lập quyền dân sự trên chủ yếu là xác lập quyền của chính chủ sở hữu đối với tài sản do mình làm ra, là quyền được pháp luật ghi nhận về chiếm hữu, sử dụng định đoạt.

2.5. Chiếm hữu tài sản

Theo Bộ luật dân sự năm 2015, chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.

Điều 186 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định cụ thể quyền chiếm hữu của chủ sở hữu: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưnkhông được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. 

Một số trường hợp chiếm hữu có căn cứ pháp luật như sau:

“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:

a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;

b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;

c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;

d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;

đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo quy định của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;

e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.

2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.”

Theo đó, quyền dân sự chỉ được xác lập trong trường hợp chiếm hữu hợp pháp, đối với các trường hợp chiếm hữu bất hợp pháp thì cá nhân chiếm hữu phải thực hiện nghĩa vụ thay vì có quyền. Một số quyền từ tài sản mang lại như quyền được sử dụng, khai thác để sản sinh hoa lợi, lợi tức.

2.6. Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Theo quy định tại Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” 

Về cơ bản, theo quy định tại Điều 579 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật thì phải trả lại cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó, nếu không có thì giao cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp nếu làm cho người khác thiệt hại thì phải trả khoản lợi cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, nếu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, được lợi từ tài sản mà không có căn cứ pháp luật đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 236 Bộ luật dân sự năm 2015 thì vẫn được pháp luật công nhận quyền sở hữu, xác lập quyền dân sự.

2.7. Bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật

Một chủ thể khi bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật do người khác gây ra, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của mình theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng là căn cứ xác lập quyền dân sự về yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Để yêu cầu bồi thường thiệt hại bên bị gây thiệt hại có nghĩa vụ chứng minh về hành vi vi phạm của bên kia và thiệt hại mà mình phải chịu. Việc bồi thường được thực hiện dựa theo nguyên tắc được quy định tại Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015 và phải tuân theo thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại (3 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm) theo quy định tại Điều 588 Bộ luật dân sự năm 2015.

Từ quyền được nhận bồi thường do hành vi vi phạm pháp luật gây ra, chủ thể có thể xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bồi thường từ bên gây thiệt hại.

2.8. Thực hiện công việc không có uỷ quyền

Theo quy định tại Điều 574 Bộ luật dân sự năm 2015 “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.”

Lại có, quy định tại Điều 576 Bộ luật dân sự năm 2015 thì: “1. Người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc và thanh toán các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả trường hợp công việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình. 2. Người có công việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho mình, trừ trường hợp người thực hiện công việc không có ủy quyền từ chối”.

Như vậy, người thực hiện công việc được thanh toán các chi phí hợp lý mà mình đã bỏ ra để thực hiện công việc. Đây cũng là căn cứ xác lập quyền dân sự.

2.9. Căn cứ khác do pháp luật quy định

Quy định này mang tính chất dự trù và mở rộng thêm về căn cứ xác lập quyền dân sự. Điều này xuất phát từ sự đa dạng, phức tạp của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội.

Trên đây là những phân tích về “Căn cứ xác lập quyền dân sự”. Hy vọng qua bài viết của chúng tôi, giúp các bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Nếu có bất kỳ thắc mắc về nội dung trên hoặc những vấn đề về pháp luật khác hãy liên hệ hotline 1900.6568 để được chuyên viên tư vấn và hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon