Năng lực hành vi dân sự là gì? Phân tích năng lực hành vi dân sự của cá nhân

nang-luc-hanh-vi-dan-su-la-gi-phan-tich-nang-luc-hanh-vi-dan-su-cua-ca-nhan

Để góp phần xây dựng xã hội và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mỗi cá nhân luôn không ngừng tham gia các mối quan hệ xã hội hàng ngày, trong đó có các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, không phải bất cứ cá nhân nào cũng có quyền tham gia vào các giao dịch dân sự. Do đó, pháp luật dân sự đã có những quy định về năng lực chủ thể của cá nhân, trong đó có năng lực hành vi dân sự nhằm đảm bảo sự ổn định trật tự trong quá trình thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự, hướng tới việc thực hiện lợi ích cho các chủ thể tham gia cũng như lợi ích chung toàn xã hội. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được hình thành khi có những điều kiện nhất định và tùy vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mỗi cá nhân mà có từng mức độ năng lực hành vi dân sự khác nhau. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích vè năng lực hành vi dân sự của cá nhân, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015;

1. Khái niệm về năng lực hành vi dân sự của cá nhân?

Điểu 19 Bộ luật dân sự năm 2015 có định nghĩa:

“Năng lực hành vi dân sự của cả nhân là khả năng của cả nhân bằng hành vi của mình xác lập thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.

Có thể hiểu khả năng của cá nhân chính là khả năng mà cá nhân nhận thức và điều khiển hành vi của mình để có thể tự chịu trách nhiệm đối với các hành vi đó.

Không giống năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, năng lực hành vi dân sự  của mỗi cá nhân không có được từ khi cá nhân được sinh ra mà nó xuất hiện khi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân đạt đến một mức độ nhất định. Thông thưởng thể hiện ở độ tuổi.

Việc quy định về độ tuổi để xác định năng lực hành vi dân sự là cần thiết bởi quá trình phát triển nhân cách, tính cách con người cần có thời gian nhất định. Khi cá nhân có khả năng kiểm soát hành vi của mình thì hành vi đó mới là hành vi của xã hội và cần thiết chịu sự điều chính của pháp luật.

Cũng giống như khả năng điều khiển hành vi, khả năng nhận thức của con người không có ngay từ khi sinh ra. Khả năng này là kết quả của quá trình học tập, sinh sống, trưởng thành và hoạt động trong xã hội loài người trong một thời gian nhất định. Trong quá trình đó, não bộ con người sẽ tiếp thu các kiến thức, kinh nghiệm sống và từ đó tích lũy dần dần lên năng lực nhận thức của con người. Khi con người đã có khả năng nhận thức nhất định thì họ mới nhận biết quyền và nghĩa vụ của mình, mới biết được những yêu cầu, đòi hỏi của bản thân và xã hội, từ đó mới có cơ sở đánh giá được ý nghĩa thực tế cũng như ý nghĩa xã hội trong hành vi của mình.

2. Một số thuật ngữ tiếng Anh có liên quan

Civil act capacity: Năng lực hành vi dân sự.

Lost civil act captacity: Mất năng lực hành vi dân sự.

Have full civil act capacity: Có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

Limited civil act capacity: Bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

3. Đặc điểm của năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Năng lực pháp luật dân sự của mỗi cá nhân là như nhau nhưng năng lực hành vi dân sự của từng cá nhân lại khác nhau. Tùy thuộc vào môi trường nuôi dưỡng, điều kiện học tập, sinh hoạt mà mỗi cá nhân sẽ có những nhận thức không giống nhau về khả năng nhận thức và khả năng làm chủ hành vi.

Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì năng lực hành vi dân sự  của cá nhân có những đặc điểm và những mức độ như sau:

– Thứ nhất, năng lực hành vi dân sự  đầy đủ: Người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) cả khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình có quyền tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập và tự chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.

– Thứ hai, năng lực hành vi dân sự  một phần: Cả nhân dưới 18 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự  một phần và chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.

Trong đó, người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi khi tham gia các giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi; người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được tự mình tham gia các giao dịch dân sự không cần sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao dịch liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và các giao dịch khác pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.

– Thứ ba, mất năng lực hành vi dân sự: Một người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức hữu quan và dựa trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định pháp y tâm thần, Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố người này bị mất năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, mọi giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự đều do người đại diện theo pháp luật của họ xác lập và thực hiện

– Thứ tư, hạn chế năng lực hành vi dân sự. Những người nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến việc phá tán tài sản gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích có liên quan, hoặc theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

– Thứ năm, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Người thành niên nhưng do tình trạng thể chất (như do sự khuyết thiếu về cơ thể như cá nhân bị mù, điếc hoặc do bị tai nạn liệt người…) hoặc do các yếu tố về tinh thần (như bị các cú sốc tâm lý…) mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan và có giám định pháp y tâm thần thì Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

4. Ý nghĩa của việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân

– Việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp khi vụ việc dân sự liên quan đến năng lực hành vi dân sự xảy ra. Việc Bộ luật dân sự quy định cụ thể về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân chính là cơ sở để giải quyết các tranh chấp liên quan đến năng lực hành vi dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

– Việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự. Các quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của cá nhân là công cụ hữu hiệu mà Nhà nước đặt ra để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi cá nhân đỏ tham gia các quan hệ dân sự, nhất là khi có tranh chấp xảy ra.

– Đồng thời, việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên khi tham gia kí kết hợp đồng. Từ những quy định về năng lực hành vi dân sự  của cá nhân, các chủ thể khi tham gia các giao dịch dân sự sẽ trang bị cho mình những kiến thức pháp lý cơ bản đảm bảo giao dịch dân sự họ tham gia không bị vô hiệu.

– Bởi chỉ những người có năng lực hành vi dân sự  đầy đủ thì mới có thể tự mình tham gia được mọi giao dịch dân sự với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật đó còn những người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự  muốn tham gia các giao dịch phải có người đại diện hoặc người giám hộ, trừ những giao dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày. Nếu không có người đại diện thì những giao dịch họ tham gia có thể bị tuyên vô hiệu, không có giá trị pháp lý.

– Việc quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân còn góp phần ngăn ngừa, răn đe các hành vi vi phạm pháp luật. Đối với những cá nhân gặp khó khăn trong nhận thức hoặc khó khăn trong việc làm chủ hành vi của mình, pháp luật quy định chỉ được tham gia các giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày Còn các giao dịch khác phải có sự đồng ý của người đại diện, người giám hộ.

– Điều này nhằm tránh tình trạng có người có ý đồ, mục đích không tốt lợi dụng việc cá nhân gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi để tiến hành các giao dịch vi phạm pháp luật. Bởi giao dịch dân sự là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định. Những người gặp khó khăn trong nhận thức hoặc khó khăn trong việc làm chủ hành vi của mình, khi tham gia giao dịch dân sự không nhận thức được việc giao kết đó là đúng hay sai hoặc không mong muốn tiến hành giao kết đó nhưng lại bị những người có mục đích xấu lợi dụng thì quy định về sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, người giám hộ là cần thiết để ngăn chặn, vô hiệu hóa các giao dịch dân sự đó. Từ đó sẽ góp phần ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Như vậy, bài viết trên đây đã phân tích về năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon