Căn cứ xác lập quyền sở hữu

can-cu-xac-lap-quyen-so-huu

Việc xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng vì pháp luật chỉ bảo vệ quyền sở hữu tài sản cho một chủ thể nhất định nếu tài sản được xác lập quyền sở hữu dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Mặt khác, khi một người là chủ sở hữu đối với một tài sản thì họ có các quyền năng đối với tài sản đó và phải chịu mọi rủi ro cũng như trách nhiệm bồi thường nếu tài sản mà mình là chủ sở hữu gây thiệt hại cho chủ thể khác.

Căn cứ pháp lý

Bộ luật Dân sự 2015;

1. Khái quát

Căn cứ xác lập quyền sở hữu là những sự kiện pháp lý do pháp luật quy định mà khi xuất hiện những sự kiện đó thì quyền sở hữu của một chủ thể đối với tài sản sẽ được phát sinh.

Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản được quy định tại Điều 221 Bộ luật Dân sự 2015

2. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp

Xác lập quyền sở hữu tài sản do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.

Đây được coi là căn cứ phổ biến làm phát sinh quyền sở hữu của các chủ thể. Để có thể được xác lập quyền sở hữu theo căn cứ này thì hoạt động lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh phải hợp pháp. Nói cách khác, người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh phải không làm các công việc hoặc không tiến hành hoạt động kinh doanh đối với các đối tượng mà pháp luật cấm.

Thu nhập có thể phát sinh quyền sở hữu phải là thu nhập thực tế mà người có thu nhập có được thu nhập đó sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với các chủ thể có liên quan. Thời điểm phát sinh quyền sở hữu đối với tài sản do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp kể từ thời điểm người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh có được tài sản đó.

Hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo hộ. Pháp luật Việt Nam công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh.

3. Chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa

Quyền sở hữu được xác lập do được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.

Quyền sở hữu có thể được xác lập thông qua sự thỏa thuận, thể hiện qua các hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật. Đối tượng để xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng là các tài sản được phép giao dịch. Thời điểm phát sinh quyền sở hữu đối với người được xác lập quyền sở hữu kể từ thời điểm chuyển giao tài sản, nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác.

Ví dụ như: A bán cho B chiếc xe máy với giá 15 triệu đồng. Theo hợp đồng, A chuyển quyền sở hữu đối với chiếc xe máy này cho B và B có trách nhiệm thanh toán tiền cho A. Đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu như chiếc xe máy trên thì quyền sở hữu được thông qua hợp đồng được chuyển giao cho B khi A và B hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan có thẩm quyền.

Quyền sở hữu được xác lập thông qua hợp đồng là căn cứ phổ biến làm phát sinh quyền sở hữu của chủ thể. Tuy nhiên, việc xác lập quyền sở hữu theo căn cứ này cũng cần lưu ý: Đối tượng của hợp đồng để xác lập quyền sở hữu thì chủ thể phải là những tài sản không bị cấm trong giao dịch dân sự. Việc giao kết, thực hiện hợp đồng phải tuân theo quy định pháp luật về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.

Bên cạnh đó, quyền sở hữu có thể được xác lập căn cứ vào bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác. Đây là trường hợp xác lập quyền sở hữu theo ý chỉ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ như Quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án về công nhận quyền sở hữu riêng của vợ hoặc chồng đối với một tài sản nhất định.

4. Quyền sở hữu được xác lập thu hoa lợi, lợi tức

Hoa lợi, lợi tức là những tài sản phái sinh. Tức là những tài sản có được hoàn toàn dựa trên cơ sở một loại tài sản trước đó. Hoa lợi luôn luôn là vật, phụ thuộc vào vật trước đó, là sản vật tự nhiên do vật mang lại. Còn lợi tức là lợi ích có được từ việc khai thác, sử dụng tài sản.

Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó.

5. Quyền sở hữu được tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến

Sáp nhập, trộn lẫn, chế biến tài sản là căn cứ phát sinh quyền sở hữu có những đặc thù nhất định ở đối tượng, xác định chủ sở hữu đối với vật mới và tính hoàn lại.

– Đối với sáp nhập tài sản.

Tùy từng trường hợp để xác định chủ sở hữu mới nếu vật đem sáp nhập có thể xác định được hoặc không xác định được là vật chính, vật phụ, động sản sáp nhập với động sản hoặc động sản sáp nhập với bất động sản. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào ý chí của các chủ thể trong việc xác lập quyền sở hữu với vật mới để xác định chủ sở hữu đối với vật được tạo thành. Thông thường, nếu vật đem sáp nhập được thực hiện theo ý chí chung của các chủ sở hữu có vật được sáp nhập thì sẽ thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu vật sáp nhập. Ngoài ra, pháp luật còn bảo vệ quyền lợi cho người ngay tình, người có tài sản bị người khác đem sáp nhập vào tài sản của họ mà không được sự đồng ý của người có tài sản bị đem sáp nhập.

– Đối tượng của trộn lẫn tài sản là các vật cùng loại với nhau.

Nếu vật mới được tạo thành thông qua việc trộn lẫn tài sản theo ý chí của các chủ sở hữu tài sản trộn lẫn thì vật mới được tạo thành thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu tài sản trộn lẫn.

Nếu một người trộn lẫn tài sản của người khác mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn, mặc dù việc trộn lẫn đó là ngay tình hay không ngay tình thì pháp luật vẫn bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn. Theo đó, chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn hoặc yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người đã trộn lẫn phần giá trị tài sản của người đó hoặc yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại, nếu không nhận tài sản mới.

– Đối với chế biến tài sản

Chế biến được hiểu là chế tạo ra, biến đổi một thứ gì đó thành một thứ khác.

Về nguyên tắc, chủ sở hữu của nguyên vật liệu sẽ là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành trên cơ sở chế biến nguyên vật liệu đó. Nếu một người dùng nguyên vật liệu của người khác để chế biến tài sản thì vật mới được xác định trên cơ sở việc chế biên đó ngay tình hay không ngay tình. Cụ thể:

  • Nếu nguời dùng nguyên vật liệu của người khác chế biến thành vật mới mà việc chế biến đó là ngay tình thì người chế biến đó có quyền sở hữu vật mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu và bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu;
  • Nếu người dùng nguyên vật liệu của người khác chế biến thành vật mới mà việc chế biến đó là không ngay tình thì vật mới thuộc sở hữu của chủ sở hữu nguyên vật liệu đó. Ngoài ra, chủ sở hữu này còn có thể yêu cầu người chế biến không ngay tình bồi thường thiệt hại.

6. Quyền sở hữu được xác lập do thừa kế

Khi người chết có để lại tài sản thì tài sản của người chết đó sẽ được chia cho người thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo pháp luật. Thời điểm được xác lập quyền sở hữu của những người thừa kế đối với di sản do người chết để lại được xác định kể từ thời điểm mở thừa kế.

7. Xác lập chiếm hữu đối với tài sản vô chủ

Quyền sở hữu được xác lập trong trường hợp chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.

– Đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu.

Tài sản vô chủ được hiểu là tài sản mà chủ sở hữu đã từ bỏ quyền sở hữu đối với tài sản đó. Tùy thuộc vào tài sản vô chủ là động sản hay bất động sản mà việc xác định chủ sở hữu đối với tài sản này sẽ khác nhau: Nếu tài sản vô chủ là động sản thì người đã phát hiện, người đang quản lý tài sản vô chủ có quyền sở hữu tài sản đó, trừ trường hợp luật có quy định khác; nếu tài sản là bất động sản thì thuộc về Nhà nước.

Người phát hiện tài sản không xác định được chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gần nhất. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản có trách nhiệm thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại. Trong trường hợp đã thông báo công khai mà vẫn không xác định được chủ sở hữu thì tài sản đó được giải quyết như sau:

  • Nếu tài sản đó là động sản thì sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định ai là chủ sở hữu thì động sản đó thuộc sở hữu của người phát hiện tài sản;
  • Nếu tài sản đó là bất động sản thì sau 05 năm, kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định ai là chủ sở hữu thì động sản đó thuộc về Nhà nước, người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định.

– Đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy.

Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản đó được xác định như sau:

  •  Nếu tài sản được tìm thấy là di tích lịch sử, văn hóa theo quy định pháp luật thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định.
  • Nếu tài sản được tìm thấy không phải di tích lịch sử, văn hóa theo quy định pháp luật và có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy;
  • Nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá đó, phần còn lại thuộc về Nhà nước.

– Đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên.

  • Nếu biết địa chỉ người người đánh rơi, bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó;
  • Nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

Nếu thông báo công khai sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

  • Trường hợp là tài sản có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định pháp luật;
  • Trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
  • Trường hợp là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định pháp luật.

– Đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.

  • Khi những động vật này bị thất lạc, người bắt được phải có nghĩa vụ thông báo công khai để chủ sở hữu biết mà nhận lại, trừ trường hợp vật nuôi dưới nước không có dấu hiệu riêng có thể xác định chủ sở hữu thì thuộc sở hữu của người có ruộng, ao hồ đó. Nếu sau thời gian thông báo công khai theo quy định mà không có người đến nhận thì những vật nuôi này và hoa lợi sẽ thuộc sở hữu của người bắt được.
  • Ngoài ra, nếu trả lại gia súc, gia cầm cho chủ sở hữu thì chủ sở hữu có nghĩa vụ thanh toán chi phí bảo quản, tiền công nuôi gia súc, gia cầm cũng như việc hưởng hoa lợi, trách nhiệm của người nuôi giữ khi cố ý làm gia súc, gia cầm chết.

8. Xác lập theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

  • Chiếm hữu phải là chiếm hữu ngay tình. Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.
  • Việc chiếm hữu tài sản phải liên tục. Việc chiếm hữu tài sản được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về tài sản đó là chiếm hữu liên tục, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu.
  • Việc chiếm hữu tài sản phải công khai. Việc chiếm hữu tài sản được cou là chiếm hữu công khai khi thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.
  • Đối với tài sản thuộc hình thức sở hữu của nhà nước thì căn cứ xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu không được áp dụng.

Trên đây là một số quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu. Nếu có bất cứ thắc mắc nào vui lòng liên hệ Luật Dương Gia theo số hotline 19006568 để được tư vấn và hỗ trợ!

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon