Hứa thưởng có thể được hiểu là một giá trị được cam kết đưa ra để khuyến khích một cá nhân, tổ chức về tinh thần hay vật chất theo một điều kiện phát sinh nào đó, thường là tiền thưởng hoặc hiện vật sau khi bên được hứa thưởng hoàn thành các công việc cho bên hứa thưởng theo thoả thuận.
Vậy, hứa thưởng là gì? Điều kiện và đặc điểm của hứa thưởng? Hứa thưởng có phải là hợp đồng không? Để hiểu rõ hơn về khái niệm này pháp luật hiện hành quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ giải đáp các thắc mắc thông qua các phân tích sau.
Căn cứ pháp lý
1. Hứa thưởng là gì?
Căn cứ theo quy định tại Điều 570 Bộ luật dân sự 2015:
“Người đã công khai hứa thưởng phải trả thưởng cho người đã thực hiện công việc theo yêu cầu của người hứa thưởng.
Công việc được hứa thưởng phải cụ thể, có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”
Trước hết, cần hiểu giao dịch dân sự là gì, theo Bộ luật dân sự 2015, giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Vậy có thể xác đinh hứa thưởng là một hành vi pháp lí đơn phương trong Giao dịch dân sự nói chung đó, hứa thưởng là việc một chủ thể đưa ra những điều kiện thưởng nhất định cho ai đó (cá nhân, tổ chức), điều kiện này phải cụ thể, rõ ràng, không bị pháp luật cấm và không trái đạo đức xã hội. Đối tượng của việc hứa thưởng là một công việc như: tìm kiếm một tài sản, hoàn thành một công việc nào đó.
Theo đó bên đưa ra lời tuyên bố hứa thưởng có mục đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể khác. Lời tuyên bố hứa thưởng khi đã được thể hiện một cách công khai, thì người tuyên bố hứa thưởng sẽ phải trả thưởng cho người đáp ứng điều kiện hoặc đã thực hiện công việc theo yêu cầu của bên hứa thưởng
2. Điều kiện của hứa thưởng
Bởi vì, chủ thể có thực hiện hay không thực hiện việc đó mà không phải gánh chịu bất cứ chế tài nào, tức là công việc đó không có tính bắt buộc đối với các chủ thể. Nên theo đó, điều kiện hứa thưởng có thể là các yêu cầu về nhân thân hoặc có thể là những công việc mà bên hứa thưởng đưa ra. Trong trường hợp điều kiện hứa thưởng là công việc mà các chủ thể phải thực hiện thì công việc đó phải đáp ứng được các điều kiện cơ bản như:
- Phải được xác định một cách cụ thể: Công việc đó là gì? Làm như thế nào? Làm ở đâu? Làm trong bao lâu ….
- Công việc đó phải có tính khả thi, tức là trong những điều kiện và hoàn cảnh bình thường, một người bình thường cũng có thể hoàn thành công việc đó.
- Hứa thưởng chỉ được thanh toán khi bên hứa thưởng nhận được lợi ích khi bên nhận hứa thưởng hoàn thành các nghĩa vụ trong hợp đồng.
- Công việc đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
- Trong trường hợp công việc trong hứa thưởng mà bên tuyên bố hứa thưởng đưa ra không thỏa mãn được các điều kiện cơ bản trên, thì lời tuyên bố hứa thưởng sẽ không có giá trị. Theo đó, quan hệ nghĩa vụ không phát sinh và các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau.
3. Đặc điểm hứa thưởng
Một là, “Hứa thưởng” là hành vi pháp lý đơn phương. Tính đơn phương của hành vi pháp lý này thể hiện rõ tại khoản 1 các điều 590 BLDS. Theo đó, người hứa thưởng hay người tổ chức các cuộc thi văn hoá, nghệ thuật… có thể tự mình đưa ra các điều kiện, mức thưởng… mà không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ hứa thưởng.
Hai là, khi tham gia vào quan hệ hứa thưởng, các bên hoàn toàn không bị bó buộc bởi một sự cam kết hay thoả thuận song phương nào do bản chất của hứa thưởng là hành vi pháp lý đơn phương.
Ba là, Hứa thưởng có tính công khai: Tính công khai trong quan hệ Hứa thưởng thể hiện trước hết ở chỗ, các chế định này, không ấn định cũng như không giới hạn về chủ thể tham gia, mà chỉ đưa ra một số quy ước hay điều kiện nhất định.
Bốn là, hứa thưởng có hai loại đó là:
+ Hứa thưởng có điều kiện
+ Hứa thưởng không có điều kiện
4. Các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ phát sinh do hứa thưởng
Chủ thể trong quan hệ này bao gồm 2 bên:
+ Bên có nghĩa vụ: là bên đã đưa ra cam kết hứa thưởng. Bên này có nghĩa vụ phải trả thưởng theo nội dung đã công bố.
+ Bên có quyền: là người đã hoàn thành công việc hứa thưởng đúng với yêu cầu mà bên hứa thưởng đã nêu trong tuyên bố hứa thưởng. Bên này có quyền nhận thưởng mà bên hứa thưởng đã cam kết. Bên có quyền này có thể là do một người thực hiện hoặc do nhiều người thực hiện.
4.1. Bên có nghĩa vụ (bên hứa thưởng)
Bên hứa thưởng phải là cá nhân hoặc pháp nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự.
Bên hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng nếu chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc. Trường hợp này bên hứa thưởng phải tuyên bố về thời hạn bắt đầu thực hiện công việc. Nếu tuyên bố hứa thưởng không quy định về thời gian bắt đầu thực hiện công việc thì tuyên bố đó có hiệu lực kể từ ngày công khai. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã công bố.
Điều 571. Rút lại tuyên bố hứa thưởng
“Khi chưa đến hạn bắt đầu thực hiện công việc thì người hứa thưởng có quyền rút lại tuyên bố hứa thưởng của mình. Việc rút lại tuyên bố hứa thưởng phải được thực hiện theo cách thức và trên phương tiện mà việc hứa thưởng đã được công bố.”
Bên hứa thưởng có thể tuyên bố về thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc công việc. Trong khoảng thời gian đó, bên hứa thưởng phải thực hiện cam kết của mình nếu người khác đã thực hiện xong những điều kiện hứa thưởng. Hết thời gian đó, bên hứa thưởng không buộc phải trả thương cho người đã thực hiện công việc đúng hạn
4.2. Bên nhận hứa thưởng
– Là người đã hoàn thành công việc mà bên hứa thưởng tuyên bố. Sau khi thực hiện xong công việc phải bàn giao lại cho bên hứa thưởng và nhận phần thưởng của bên trả thưởng. Nếu một người thực hiện công việc hứa thưởng thì người đó có quyền nhận thưởng.
– Nhiều người thực hiện công việc nhưng hành vi của họ hoàn toàn độc lập với nhau, người nào thực hiện xong trước, người đó được nhận thưởng. Nếu họ cùng hoàn thành công việc vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho tất cả mọi người. Trường hợp này họ thực hiện một loại công việc giống nhau, thời gian giao kết quả công việc trùng nhau và có một phần thưởng duy nhất.
Cũng có thể cùng một loại công việc nhưng có nhiều phần thưởng, người nào hoàn thành công việc đó đúng thời hạn sẽ được nhận một phần thưởng riêng. Điều này phụ thuộc vào việc tuyên bố trả thưởng. Nhiều người cùng công tác để thực hiện công việc do người hứa thưởng yêu cầu, họ sẽ được nhận chung phần thưởng, phần của mỗi người phụ thuộc và công sức đóng góp của họ
Theo nội dung tại Điều 572 Bộ luật dân sự 2015 về trả thưởng như sau:
+ Trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng.
+ Khi một công việc được hứa thưởng do nhiều người cùng thực hiện nhưng mỗi người thực hiện độc lập với nhau thì người hoàn thành đầu tiên được nhận thưởng.
+ Trường hợp nhiều người cùng hoàn thành công việc được hứa thưởng vào cùng một thời điểm thì phần thưởng được chia đều cho những người đó.
+ Trường hợp nhiều người cùng cộng tác để thực hiện công việc được hứa thưởng do người hứa thưởng yêu cầu thì mỗi người được nhận một phần của phần thưởng tương ứng với phần đóng góp của mình.
5. Hứa thưởng có phải hợp đồng không?
– Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 xác định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lí đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Từ quy định này ta thấy giao dịch dân sự được xác định là kết quả của việc làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự.
Trong giao dịch dân sự ý chí và sự thể hiện ý chí của chủ thể tham gia giao dịch là vô cùng quan trọng. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội dung của nó được xác định bởi các nhu cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân họ.
– Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự, trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc bên còn lại trong quan hệ. Tuy nhiên, bên kia có thể tham gia hoặc không tham gia giao dịch. Điều này thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 570 và khoản 2 điều 573 Bộ luật Dân sự 2015.
– Hứa thưởng không ấn định và cũng không giới hạn về chủ thể tham gia, thường là chỉ đưa ra một số tiêu chuẩn hay điều kiện nhất định. Xét về mặt chủ thể sẽ có điểm khác biệt căn bản so với quan hệ hợp đồng, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải đảm bảo một số điều kiện nhất định về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, đồng thời phải được xác định cụ thể trong hợp đồng. Trong khi đó, đối tượng tham gia vào quan hệ hứa thưởng lại không bị giới hạn bởi các điều kiện này.
– Tham gia vào việc hứa thưởng các bên hoàn toàn không bị rằng buộc bởi một sự cam kết hay thỏa thuận nào. Mặt khác, theo quy định tại Điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 về khái niệm hợp đồng thì, hợp đồng dân sự, phải là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể thấy, hứa thưởng là hành vi pháp lý đơn phương không ràng buộc bởi quan hệ hợp đồng, các chủ thể thực hiện nghĩa vụ với nhau thông qua thoả thuận ban đầu mà không cần phải thành lập văn bản dưới dạng hợp đồng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp Việc hứa thưởng có thể được lập thành văn bản dưới dạng hợp đồng hứa thưởng nhằm đảm bảo quyền lợi của bên nhận thưởng, tránh xảy ra tình trạng “hứa xuông”. Để đảm bảo tránh trường hợp gây ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của bên hứa thưởng, đồng thời ảnh hưởng tới tinh thần và niềm tin của người được hứa thưởng gây nên thái độ tiêu cực và dễ gây mâu thuẫn, các bên tham gia giao dịch sẽ thoả thuận với nhau và các thoả thuận hứa thưởng sẽ có thể được thành lập bằng văn bản dưới dạng hợp đồng. Theo đó, các bên sẽ bị ràng buộc trách nhiệm đối với hợp đồng đã ký kết, ở trường hợp này hứa thưởng được xem là một dạng hợp đồng.
Trên đây là toàn bộ các quy định của pháp luật về “Hứa thưởng”. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc xin vui lòng liên hệ đến chúng tôi theo số Hotline 19006568 để được tư vấn tốt nhất.