Ngày nay, sự hoạt động của pháp nhân không chỉ hướng tới mục đích đạt được lợi nhuận mà còn nhằm mục đích đảm bảo điều kiện vật chất những cho hoạt động quản lý, khoa học, từ thiện và các hoạt động xã hội khác. Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24/11/2015 có nhiều điểm mới trong phần pháp nhân tại quy định tại Chương IV, bao gồm 23 điều từ Điều 74 đến Điều 96. Mặc dù đến ngày 01/01/2017 BLDS năm 2015 mới phát sinh hiệu lực và đưa vào thi hành nhưng hiện nay đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thành công cũng như hạn chế của các quy định mới này. Dưới góc độ là một nhà nghiên cứu pháp luật, bài viết chỉ một số điểm mới cũng như mặt thành công và hạn chế trong các quy định về pháp nhân trong BLDS năm 2015 theo quan điểm cá nhân của tác giả.
1. Những điểm mới trong quy định về pháp nhân của BLDS năm 2015
Bộ luật Dân sự năm 2015 vừa được thông qua so với BLDS năm 2005 phần quy định về pháp nhân có nhiều điểm mới đáng chú ý, cụ thể như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào mục đích hoạt động của pháp nhân, BLDS năm 2015 đã chia pháp nhân làm hai loại pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Theo đó, Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên (khoản 1 Điều 75). Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên (khoản 1 Điều 76). Khác với BLDS năm 2005, nếu như BLDS năm 2005 liệt kê các loại pháp nhân mà không dựa trên bất cứ một căn cứ khoa học nào (Điều 100) thì BLDS năm 2015 đã đưa ra căn cứ phân loại pháp nhân dựa vào mục đích hoạt động của từng pháp nhân. Đây là một cách tiếp cận mới của BLDS năm 2015 trên cơ sở có tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới. Ở góc độ nào đó quy định này được đánh giá là một trong những thành công của BLDS năm 2015.
Thứ hai, BLDS năm 2015 quy định rõ năng lực pháp luật dân sự của pháp nhânhình thành từ thời điểm được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh vào thời điểm ghi vào sổ đăng ký (Điều 86). Quy định này là hợp lý bởi thực tế pháp luật nước ta hiện nay vẫn thừa nhận hai con đường hình thành pháp nhân: thông qua quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc thông qua trình tự đăng ký thành lập.Nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì năng lực pháp luật của pháp nhân phát sinh từ thời điểm quyết định thành lập pháp nhân có hiệu lực pháp luật. Trường hợp pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật của pháp nhân phát sinh vào thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký (thời điểm được ghi vào sổ đăng ký).
Thứ ba, BLDS năm 2015đã sửa đổi, bổ sung các quy định về việc thành lập, đăng ký pháp nhân(Điều 82); cơ cấu tổ chức của pháp nhân (Điều 83); trách nhiệm dân sự của pháp nhân, hợp nhất pháp nhân, sáp nhận pháp nhân, chia pháp nhân, tách pháp nhân (từ Điều 87 đến Điều 91). Trong đó, có nội dung quan trọngrất đáng ghi nhận. Nếu ở BLDS năm 2005 chỉ giới hạn phạm vi những pháp nhân được hợp nhất, sáp nhập phải là những pháp nhân cùng loại thì trong BLDS năm 2015 đã bỏ quy định này, điều đó có nghĩa là các pháp nhân không cùng loại cũng có thể hợp nhất, sáp nhập với nhau. Quy định này là cần thiết và hợp lý, nó sẽ ra tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc hợp nhất, sáp nhập nhiều loại hình pháp nhân vốn hết sức đa dạng và phức tạp trong xã hội hiện nay.
Thứ tư, điểm mới tiếp theo của BLDS năm 2015 là đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến người đại diện của pháp nhân. Trong khi BLDS năm 2005 quy định người đại diện cho pháp nhân chỉ có thể là cá nhân thì BLDS năm 2015 đã mở rộng phạm vi người đại diện cho pháp nhân ngoài cá nhân có thể là pháp nhân (Điều 134). Không những vậy, BLDS năm 2015 còn bổ sung quy định về các trường hợp đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại Điều 137. Theo đó, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
“a. Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
b. Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
c. Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng vụ án”.
Cùng với việc quy định về người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, BLDS năm 2015 còn cho phép pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật (khoản 2 Điều 137).
Thứ năm, điểm mơi kế tiếp phải kể đến là BLDS năm 2015 đã bổ sung các quy định về Quốc tịch của pháp nhân;Tài sản của pháp nhân và Chuyển đổi hình thức của pháp nhân, với nhiều nội dung hết sức quan trọng như: Pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam (Điều 80); Tài sản của pháp nhân bao gồm vốn góp của chủ sở hữu, sáng lập viên, thành viên của pháp nhân và tài sản khác mà pháp nhân được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan (Điều 81); Pháp nhân có thể được chuyển đổi hình thức thành pháp nhân khác. Sau khi chuyển đổi hình thức, pháp nhân được chuyển đổi chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm pháp nhân chuyển đổi được thành lập; pháp nhân chuyển đổi kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân được chuyển đổi (Điều 92).
Thứ sáu, điểm mới sau cùng của BLDS năm 2015 là việc bổ sung thêmmột trường hợp pháp nhân bị giải thể tại điểm d khoản 1 Điều 93 (pháp nhân có thể bị giải thể theo quy định khác của pháp luật); quy định về thứ tự thanh toán tài sản của pháp nhân khi bị giải thể (Điều 94). Theo đó, tài sản của pháp nhân khi bị giải thể được ưu tiên thanh toán theo thứ tự sau:
“a. Chi phí giải thể;
b. Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động đã ký kết;
c. Nợ thuế và các khoản nợ khác”.
Sau khi đã thanh toán hết chi phí cho việc giải thể pháp nhân và thanh toán các khoản nợ của pháp nhân, phần còn lại sẽ thuộc về chủ sở hữu pháp nhân hoặc các thành viên góp vốn. Trường hợp pháp nhân bị giải thể là các quỹ xã hội, quỹ từ thiện thì sau khi đã thanh toán hết chi phí giải thể và các khoản nợ quy định theo thứ tự ưu tiên thanh toán trên, tài sản còn lại được chuyển giao cho quỹ khác có cùng mục đích hoạt động. Trường hợp không có quỹ khác có cùng mục đích hoạt động nhận tài sản chuyển giao hoặc quỹ bị giải thể do hoạt động vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì tài sản của quỹ bị giải thể thuộc về Nhà nước.
2. Đánh giá về những điểm mới trong phần pháp nhân của BLDS năm 2015
Nhìn chung, các quy định trong Chương IV BLDS năm 2015 đã thực hiện tương đối tốt các quan điểm chỉ đạo xây dựng BLDS của Đảng, Nhà nước và đã đạt được những thành công nhất định, cụ thể:
Thứ nhất, Bộ luật thể chế hóa đầy đủ các quan điểm mới của Đảng đã được ghi nhận tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 và Cương lĩnh xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011);
Thứ hai, Bộ luật đã cụ thể hoá được những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, về việc tăng cường các biện pháp để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự;
Thứ ba, với vai trò là luật chung của hệ thống luật tư, BLDS năm 2015 có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi. Một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác không làm thay các đạo luật chuyên ngành, đáp ứng được kịp thời nhu cầu điều chỉnh các quan hệ dân sự vốn rất năng động, đa dạng trong thực tiễn.
Bên cạnh những thành công cơ bản như trên, một số quy định trong phần pháp nhân của BLDS năm 2015 cần phải tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ và cân nhắc sửa đổi sao cho hợp lý hơn, cụ thể như sau:
Một là, quy định về phân loại pháp nhân
Việc chia pháp nhân thành hai hoại pháp nhân thương mại (Điều 75) và pháp nhân phi thương mại (Điều 76),đây là một cách tiếp cận mới củaBLDS năm 2015 trên cơ sở có tham khảo kinh nghiệm pháp luật về pháp nhân của một số quốc gia trên thế giới.Tuy nhiên, căn cứ phân biệt giữa hai loại pháp nhân này dựa vào “mục đích chínhlà tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được phân chia cho các thành viên” của pháp nhân thương mại và mục đích “không vì mục tiêu chínhlà tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên” của pháp nhân phi thương mại là rất khó để xác định. Chưa kể đến việc không cho phép pháp nhân phi thương mại được phân chia lợi nhuận cho các thành viên pháp nhân sẽ trở thành “rào cản” cho các pháp nhân phi thương mại phát triển, điều đó sẽ khiến cho mục tiêu xã hội hóa các hoạt động công ích ngày càng trở nên xa vời, thiếu thực tế.
Hơn nữa, bản thân quy định về pháp nhân phi thương mại tại Điều 76 cũng chưa thực sự hợp lý. Nhà làm luật hình như đang đồng nhất việc tìm kiếm lợi nhuận với mục tiêu hoạt động của pháp nhân, chưa phân biệt được hai vấn đề khác nhau là tìm kiếm lợi nhuận và việc sử dụng lợi nhuận tìm kiếm được. Quy định này sẽ không bao quát được những pháp nhân hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận nhưng sử dụng lợi nhuận đó vì những mục đích công ích. Ví dụ, các Cơ sở giáo dục đại học tư thục, các cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo Luật Giáo dục Đại học 2012,hoặc các loại hình doanh nghiệp xã hội hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. Đối chiếu các quy định nêu trên không rõ cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp xã hội đang tồn tại là pháp nhân thương mại hay pháp nhân phi thương mại?
Hai là, quy định về thành lập pháp nhân
Trong BLDS năm 2015, khoản 2 Điều 74 quy định: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác”. Điều 82 quy định về thành lập, đăng ký pháp nhân: “1. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác theo quy định của pháp luật”.
Ở đây, Bộ luật cố gắng ghi nhận nguyên tắc và tạo điều kiện thuận lợi để mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân một cách dễ dàng, thuận tiện bằng cách quy định đơn giản hóa thủ tục thành lập pháp nhân. Tuy nhiên khi đưa vào áp dụng sẽ không phù và chắc chắn gây ra những khó khăn cho những chủ thể muốn thành lập pháp nhân. Nguyên nhân là do khoản 1 Điều 77 BLDS 2015 đòi hỏi quá nhiều điều khoản bắt buộc trong nội dung điều lệ của pháp nhân (11 nội dung bắt buộc, bao gồm: Tên gọi; mục đích và phạm vi hoạt động; trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện nếu có; vốn điều lệ; cơ cấu tổ chức, thể thức cử, bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm vụ và quyền hạn của các chức danh của cơ quan điều hành và khác cơ quan khác…). Nếu bộ luật đã cho phép ai cũng có quyền thành lập pháp nhân như qui định tại khoản 2 Điều 74 thì nên giảm bớt các nội dung bắt buộc trong điều lệ khi thành lập pháp nhân là việc cần thiết cho một xã hội văn có hóa pháp lý còn thấp như Nước ta. Hơn nữa, đối với những pháp nhân đặc thù đã có những yêu cầu bắt buộc khác của luật chuyên ngành khi thành lập. Chúng ta có thể tham khảo Bộ luật Dân sự Nhật Bản 2006, chỉ đòi hỏi 06 điều kiện bắt buộc trong điều lệ của pháp nhân, bao gồm: mục đích, tên gọi, nơi đóng trụ sở, các qui định về tài sản, các qui định liên quan tới chỉ định và bãi chức những người quản lý, và các qui định về thủ đắc và mất tư cách thành viên.
Ba là, quy định về đăng ký pháp nhân
Mục đích đăng ký pháp nhân là ghi nhận về mặt pháp lý vị trí của pháp nhân, trên cơ sở đó công nhận sự tham gia của pháp nhân trong quan hệ dân sự với các chủ thể khác. Hơn nữa việc đăng ký pháp nhân chính là căn cứ để bảo vệ quyền đối kháng với bên thứ ba. Bộ luật chỉ quy định duy nhất một điều khoản liên quan đến việc thành lập, đăng ký pháp nhân (Điều 82) trong khi sự dẫn chiếu luật áp dụng đăng ký pháp nhân không đầy đủ. Trong bối cảnh đã trao quyền tự chủ cho các pháp nhân quyết định điều lệ của mình thì Bộ luật phải có cơ chế để kiểm soát nghĩa vụ đăng ký và công khai thông tin đăng ký pháp nhân trong thời hạn luật định. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 đã bỏ qua yếu tố quản lý nhà nước đối với pháp nhân ở chỗ không ghi nhận những pháp nhân trước khi đăng ký phải được cấp phép hoặc chấp thuận cho phép thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ khiến cho quy định về thành lập pháp nhân quá đơn giản, có thể sẽ gây ra khó khăn cho Nhà nước trong việc quản lý hoạt động của các pháp nhân sau này.
Giải pháp đưa ra là cần dựa trên thực tế hoạt động và mục đích hoạt động của pháp nhân để xác định nội dung quy định về thành lập và đăng ký pháp nhân. Theo đó nên bổ sung quy định tại Điều 82: “Đối với những pháp nhân buộc phải có giấy phép hoặc chấp thuận cho phép hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì phải hoàn thành thủ tục xin phép hoặc phải được chấp thuận hoạt động trước khi đăng ký pháp nhân”.
Bốn là, quy định về quốc tịch của pháp nhân
Một điểm mới nữa của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 là việc quy định về quốc tịch của pháp nhân tại Điều 80, theo đó pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam là pháp nhân Việt Nam. Quy định này đã ghi nhận mối liên hệ pháp lý đặc biệt và vững chắc giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các pháp nhân có quốc tịch Việt Nam. Mối quan hệ này đặc biệt được thể hiện trong hoạt động của các pháp nhân có quốc tịch Việt Nam ở nước ngoài, pháp nhân sẽ được nhà nước bảo hộ về mặt ngoại giao; đồng thời việc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, chấm dứt pháp nhân và thanh lý tài sản của pháp nhân sẽ được tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Không những vậy, quy định về quốc tịch pháp nhân trong BLDS năm 2015 sẽ giúp cho chúng ta xác định chính xác pháp luật được lựa chọn để điều chỉnh hoạt động của pháp nhân và lựa chọn hệ thống pháp luật nào để giải quyết các tranh chấp giữa các pháp nhân có quốc tịch khác nhau.
Liên quan đến vấn đề quốc tịch của pháp nhân, một thiếu sót trong BLDS năm 2015 là không quy định rõ thẩm quyền của các cơ quan đại diện của pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam mặc dù Bộ luật có “nhắc đến” pháp nhân nước ngoài tại Điều 676. Hiện nay, có rất nhiều pháp nhân nước ngoài (pháp nhân thành lập theo pháp luật nước ngoài nhưng có những hoạt động liên quan trong lãnh thổ Việt Nam) đang tham gia vào rất nhiều các quan hệ dân sự, thương mại tại Việt Nam. Tuy nhiên lại chưa có quy định xác định vị trí, vai trò các văn phòng đại diện, chi nhánh của pháp nhân nước ngoài khi tham gia các giao dịch dân sự, thương mại. Điều này sẽ gây ra khó khăn cho quá trình hợp tác, kinh doanh thương mại giữa các pháp nhân có quốc tịch Việt Nam với pháp nhân có quốc tịch Nước ngoài. Vậy nên cần nhanh chóng bổ sung quy định về tư cách pháp lý của các chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân nước ngoài khi tham gia vào các quan hệ dân sự, thương mại tại Việt Nam.