Thực tiễn thương mại hóa sáng chế nhìn từ việc thiết lập quyền, khai thác sáng chế phân loại rác thải tự động Made in Việt Nam trị giá 12,24 triệu USD.
Theo Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050, tỷ lệ xử lý chất thải cho mục đích năng lượng từ mức không đáng kể hiện nay sẽ tăng lên 30% vào năm 2030, khoảng 70% vào năm 2030 và hầu hết được tận dụng cho mục đích năng lượng vào năm 2050. Tuy nhiên, do thiếu công nghệ xử lý rác chuẩn được Chính phủ cho phép áp dụng, thực tiễn do công nghệ theo kiểu trăm hoa đua nở cùng với việc kiểm tra giám sát chưa đầy đủ dẫn đến môi trường đất, nước và không khí bị ảnh hưởng nghiêm trọng; mặt khác do ô nhiễm thứ cấp từ quá trình xử lý rác thải sinh hoạt dẫn đến những tồn tại không nhỏ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Cho đến nay chưa có mô hình mẫu xử lý rác thải sinh hoạt nào được Chính phủ chấp nhận cho phép nhân rộng. Bài viết này nhận dạng các rào cản chính đối với việc thương mại hoá sáng chế trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn nhìn từ một tình huống điển hình của Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa học công nghệ và môi trường Việt Nam, từ đó gợi ý một số đề xuất để doanh nghiệp startups vượt qua các rào cản, sử dụng hiệu quả tài sản trí tuệ của mình để phát triển bền vững.
1. Giới thiệu về thiết lập quyền đối với sáng chế phân loại rác thải tự động
Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghệ môi trường xây dựng (CIRDETC) thuộc Hội Môi trường xây dựng Việt Nam là đơn vị nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và cung cấp thiết bị công nghệ xử lý rác thải rắn sinh hoạt. Công ty TNHH Khoa học công nghệ môi trường Việt Nam (doanh nghiệp khoa học công nghệ), Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 01/DNKHCN ngày 27/6/2012, là đơn vị triển khai sản xuất và thương mại hóa các sản phẩm khoa học của Trung tâm CIRDETC. Hiện Công ty đang triển khai thiết bị tự động phân loại rác thải rắn sinh hoạt thế hệ thứ 7 đáp ứng yêu cầu phân loại rác thải sinh hoạt ở quy mô công nghiệp công suất từ 100 đến 300 tấn/ngày và tư vấn chuyển giao các công nghệ xử lý rác sau phân loại.
Nhà sáng chế Lại Minh Chức – Giám đốc Trung tâm khoa học CIRDETC, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Công ty Khoa học công nghệ môi trường Việt Nam có 20 năm kinh nghiệm nghiên cứu về công nghệ xử lý rác thải. Tác giả từng nhận Giải thưởng khoa học công nghệ VIFOTEC 1998 về xử lý rác thải thành vật liệu mới thay gỗ; Giải thưởng VIFOTEC 2014 và thiết bị tự động phân loại rác thải; Giải thưởng sáng chế Việt Nam và giải thưởng Môi trường Việt Nam năm 2014, 2015. Lại Minh Chức là tác giả, đồng tác giả và là chủ đơn của 15 đơn đăng ký sáng chế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; Đã nhận 04 bang bảo hộ độc quyền sáng chế và có một số sáng chế quan trọng chưa đăng ký bảo hộ. Trong suốt 12 năm qua, kỹ sư Lại Minh Chức đã tự nghiên cứu, chỉnh sửa để hoàn thiện được tổ hợp thiết bị có khả năng phân loại rác thải với công suất từ 100 – 150 tấn rác mỗi ngày.
Từ năm 2008, ý tưởng chế tạo và thử nghiệm từng thành phần của tổ hợp máy tư động phân loại rác thải được tiến hành lần đầu tiên tại Nhà máy xử lý rác thải Sơn Tây Seraphin. Năm 2009 đến 2012, tổ hợp thiết bị tự động phân loại rác thải hoàn chỉnh được thiết kế lần thứ 2,3 tại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội và thử nghiệm thành công tại Nhà máy xử lý rác thải Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Từ năm 2012 đến 2014, dự án chế tạo hoàn thiện thiết bị và công nghệ tự động phân loại rác thải lần thứ 4, 5 được thực hiện tại Hưng Yên và triển khai thử nghiệm tại Nhà máy xử lý rác thải Thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, sau đó thử nghiệm tại khu xử lý rác thải xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên.
Năm 2019, tổ hợp máy phân loại rác thải điều khiển từ xa thứ 6 đã được chuyển giao thành công và đi vào hoạt động, có thể phân loại 100 tấn rác thải/ngày liên tục tại khu liên hợp xử lý rác thải Cù Lao Xanh, tỉnh Đồng Nai. Ưu điểm của tổ hợp thiết bị phân loại rác thải điều khiển từ xa là toàn bộ khu tiếp nhận và phân loại rác thải được đặt trong một phân xưởng kín, nhờ đó hạn chế tối đa việc phát tán mùi hôi ra môi trường xung quanh. Quá trình phân loại rác chỉ cần 2 công nhân vận hành, trong đó một công nhân điều khiển robot (cầu trục chuyên dụng) để đưa rác thải vào máy. Một công nhân điều khiển tổ hợp thiết bị từ động phân loại rác thải. Thiết bị này có thể phân loại rác thành từ 2 – 4 nhóm (phù hợp với các công nghệ xử lý sau phân loại) với công suất từ 10 – 20 tấn/giờ. Đặc biệt, thiết bị có thể phân tách tới 80% nhóm mùn hữu cơ ra khỏi rác tổng hợp, trong đó tỷ lệ mùn hữu cơ dễ phân hủy sinh học từ 70 – 90%. Thiết bị này có thể phân phối lượng rác vào máy cắt phù hợp với từng loại và máy, băm cắt thông minh cho phép tự cắt xé bao, gói và lựa chọn loại rác cần cắt nhỏ theo yêu cầu của công nghệ phân loại và tái chế. Mặt khác, máy có thể cắt nhỏ các loại rác hữu cơ có nguồn gốc động, thực vật để sản xuất phân bón vi sinh phục vụ cho nông nghiệp; nghiền nhỏ rác thải vô cơ (gạch đá, thủy tinh) phục vụ cho công nghệ đóng rắn hoặc san lấp… Công nghệ cho phép giảm từ 70% đến 85% thể tích chôn lấp so với các công nghệ hiện nay, giảm thời gian phân hủy nên tăng được sản lượng và sớm thu hồi được khí gas, thu hồi mùn hữu cơ sinh học, làm giảm thời gian quay vòng hố chôn lấp hàng chục năm so với công nghệ mà các công ty môi trường đang áp dụng.
Tính từ thời điểm hình thành ý tưởng sáng chế đến khi thiết kế, chế tạo và thử nghiệm thành công tổ hợp thiết bị tự động phân loại rác thải hoàn chỉnh, phải 10 năm sau, năm 2019, tác giả mới thương mại hóa được sản phẩm thế hệ thứ 6 tại Đồng Nai. Sáng chế này đã trải qua 7 hội đồng khoa học cấp Nhà nước và địa phương thẩm định, năm 2013 đã được chuyên gia độc lập của WIPO định giá tới 12.24 triệu đô la Mỹ [[1]] Tác giả đã triển khai giới thiệu trên nhiều nền tảng thông tin trong nước và thế giới như được hỗ trợ quảng bá trên các báo, đài truyền thanh, truyền hình quốc gia, trên Google, Youtube và Facebook. Tác giả đã ba lần xây dựng mô hình mẫu ở quy mô công nghiệp trong thời gian bốn năm ở Hà Nam, hai năm ở Hưng Yên, một năm ở Đồng Nai.
2. Nhận dạng một số rào cản thương mại hoá công nghệ phân loại rác tự động
Dù tác giả đã tiếp cận với hàng trăm chủ dự án xử lý rác thải, trên 10 nhà đầu tư tài chính nhưng trong suốt 10 năm qua, tuy nhiên chưa có đối tác nào mua sáng chế này. Nguyên nhân việc thương mại hóa sản phẩm gặp nhiều khó khăn có thể thấy:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực tế của hầu hết các chủ đầu tư các dự án xử lý rác thải ở Việt nam. Điều mà các chủ đầu tư mong muốn là phải thấy trực tiếp một mô hình mẫu về xử lý rác thải rác thải ở quy mô công nghiệp từ hàng chục đến hàng trăm tấn/ngày. Ở đó đó cần có cả một tổ hợp các thiết bị công nghệ đồng bộ từ khâu phân loại, xử lý sinh hoc, tái chế và đốt rác thải theo hướng đốt bỏ hoặc đốt có thu hồi năng lượng. Mô hình mẫu toàn diện phải đáp ứng được mục tiêu xử lý rác thải an toàn với môi trường và mang lại hiệu quả hấp dẫn cho nhà đầu tư.
Thứ hai, tác giả chủ sở hữu công nghệ thiếu nguồn lực tài chính để triển khai sáng chế vào thực tế dưới dạng một mô hình mẫu. Trong suốt 12 năm mặc dù đã hết sức cố gắng huy đông mọi nguồn tài chính tự có và tác giả công nghệ đã được nhà nước hỗ trợ 30% dự án sản xuất thử nghiệm (2,5 tỷ đồng từ 2012 đến 2014) mới tạo ra được nguyên mẫu tổ hợp thiết bị tự động phân loại rác thải theo sáng chế. Mặt khác để có được một tổ hợp các thiết bị xử lý rác thải đồng bộ theo yêu cầu của các nhà đầu tư, tác giả đã phải đầu tư nghiên cứu, sáng tạo hàng loạt các thiết bị công nghệ phụ trợ khác như thiết bị và công nghệ ủ sinh học, lò đốt rác thải… vẫn không thể tự huy động đủ nguồn lực tài chính để xây dựng một mô hình mẫu hoàn chỉnh xử lý triệt để rác thải ở quy mô công nghiệp đáp ứng đúng yêu cầu của các nhà đầu tư.
Thứ ba, rào cản từ chính các chủ thể tham gia hoạt động xử lý rác. Trong suốt hơn 10 năm qua ở Việt nam có một số lượng không nhỏ các chủ dự án chỉ cần những “thiết bị, công nghệ xử lý rác thải ảo” để huy động một lượng vốn ưu đãi lớn hơn nhiều lần yêu cầu lượng vốn thực tế. Một số không nhỏ các chủ đầu tư này mong muốn để được cấp một diện tích đất lớn nhằm trải chiếu chiếm chỗ, chờ cơ hội bán lại dự án lấy lãi.
Thứ tư, ở nhiều lĩnh vực khác nhau của hoạt động KH-CN tồn tại không ít hiện tượng “lệch pha” giữa các chính sách, quy định, thậm chí giữa các điều luật, dẫn tới khó khăn vướng mắc trong thực thi. Những ràng buộc hạn chế phát triển của KH-CN nước ta vẫn còn nhiều, dẫn tới thị trường KH-CN còn dè dặt, chưa thật sự sôi động. Đây cũng là một trong những căn nguyên khiến chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ bao gồm sáng chế vẫn chưa thể phát triển tương xứng với tiềm lực. Thêm nữa, hiện nay việc liên kết giữa các bên nhằm xúc tiến đưa sản phẩm nghiên cứu ra thị trường vẫn là một điểm yếu mang tính phổ biến tại các địa phương, ban ngành. Chính việc phát triển cục bộ, manh mún, chưa thật sự tạo được chuỗi liên kết chặt chẽ đã làm hạn chế quá trình hình thành những liên minh mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả trong ngành xử lý rác thải.
3. Một số đề xuất bước đầu hướng tới thương mại hoá thành công sáng chế phân loại rác thải tự động
Thiết bị phân loại rác thải điều khiển từ xa của Công ty Khoa học Công nghệ Môi trường Việt Nam hiện đã được ứng dụng tại một vài nhà máy xử rác tại Việt Nam, thay thế 100% lao động trong công đoạn phân loại rác bằng tay – điều mà nhiều máy xử lý rác khác trong nước chưa làm được.
Để tổ hợp thiết bị phân loại rác tự động (WTM) “made in Vietnam” được phổ biến rộng rãi trong ngành công nghiệp xử lý rác thải trong nước, cần có sự quan tâm quyết liệt của các cơ quan chức năng trong việc tạo cơ chế hỗ trợ đưa hệ thống vào hoạt động xử lý rác thải. Nếu địa phương nào cũng bỏ qua việc sử dụng công nghệ Made in Vietnam, còn tư tưởng chuộng công nghệ nhập ngoại mà không tính đến yếu tố phù hợp của các công nghệ đó với điều kiện rác thải chưa qua phân loại như hiện tại, thực tiễn cần có định hướng về sử dụng công nghệ một cách rõ ràng từ Chính phủ và các bộ chức năng liên quan để tránh lãng phí ngoại tệ và nguồn lực của đất nước.
Mặt khác, cần có các nhà đầu tư có tâm, có tầm sẵn sàng bắt tay hợp tác để nhân rộng công nghệ xử phân loại xử lý rác tự động WTW Made in Vietnam đến các địa phương, cải thiện được điều kiện làm việc, đảm bảo an toàn lao động cho công nhân trực tiếp sản xuất và giảm chi phí vận hành một cách tối ưu nhất, mang lại sự hưởng thụ về môi trường sống an toàn cho cả cộng đồng trên cả nước ta./.
[1] Hội thảo trực tuyến, Technology Valuation: Case Study of Waste Sorting Resolution; do Trường Đại học Kinh tế quốc dân phối hợp với Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và mạng lưới chuyên gia khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (LIF Vietnam) tổ chức ngày 1/8/2021.