Giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng tại Đà Nẵng

giai-quyet-tranh-chap-ve-tai-san-cua-vo-chong-tai-da-nang

Từ ngày 01/01/2015, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng. Theo đó, trước khi kết hôn, hai bên kết hôn có quyền lập văn bản thỏa thuận về việc thực hiện các quan hệ tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Các bên toàn quyền định ra những quy tắc xác định những tài sản nào thuộc sở hữu chung của vợ và chồng, tài sản nào thuộc sở hữu riêng của mỗi bên vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc quản lý, định đoạt tài sản chung, tài sản riêng và trong việc thực hiện các giao dịch; cách thức phân chia tài sản khi cần phân chia tài sản.

Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng vẫn được giải quyết theo luật định, cụ thể là tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn. Vậy tại thành phố Đà Nẵng, khi có tranh chấp về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, mọi người có thể liên hệ Công ty luật TNHH Dương Gia để được hỗ trợ pháp lý kịp thời, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp.

1. Thực trạng thỏa thuận giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn

Thực tiễn thi hành Luật HN&GĐ năm 2014, qua tìm hiểu thực tiễn công chứng tại nhiều tổ chức hành nghề công chứng, tác giả nhận thấy có rất ít quan hệ vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận. Có nhiều nguyên nhân của thực trạng này, trong đó có thể kể đến hai nguyên nhân chính:

(1) Quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mới được đưa vào trong Luật HN&GĐ;

(2) quan niệm của người phương Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng thường đề cao yếu tố tình cảm hơn yếu tố tài sản, dẫn đến khó khăn cho một bên khi muốn đề xuất lập văn bản thỏa thuận về tài sản trước khi kết hôn.

Để chế độ tài sản theo thỏa thuận được biết đến rộng rãi và được người dân đón nhận, thực hiện thì cần thêm thời gian. Những văn bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận đã được công chứng mà tác giả được biết đều có những nội dung rất cụ thể, rõ ràng về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng theo hướng những tài sản do mỗi bên vợ, chồng tạo ra, có được trước và trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản riêng của vợ, chồng;

Chỉ những tài sản do vợ và chồng thỏa thuận nhập vào tài sản chung, tài sản có được từ giao dịch do vợ và chồng cùng tham gia xác lập hoặc hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản chung mới là tài sản chung của vợ chồng. Các văn bản thỏa thuận này không có quy định về cách thức phân chia tài sản của vợ chồng khi chấm dứt hôn nhân. Với những quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, việc thực hiện các quan hệ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như việc giải quyết tranh chấp được dễ dàng hơn nhiều so với việc thực hiện, áp dụng các quy định trong chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.

Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng nói chung và khi ly hôn nói riêng, tác giả chưa được biết về một bản án nào của Tòa án mà việc giải quyết dựa vào chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Điều này có thể được giải thích theo hai hướng. Thứ nhất, do các thỏa thuận của vợ chồng về quan hệ tài sản của họ đã cụ thể, rõ ràng và phù hợp với họ nên các bên vợ, chồng tôn trọng và tự giác thực hiện mà không có tranh chấp. Thứ hai, do văn bản về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận mới được xác lập và chưa có những sự kiện dẫn đến vợ chồng phải có những xung đột về tài sản (liên quan đến quá trình quản lý, định đoạt tài sản, việc đáp ứng nhu cầu chung của gia đình hoặc ly hôn) nên chúng ta chưa thấy những vụ việc tranh chấp về tài sản của vợ chồng tại Tòa án.

2. Thực trạng giải quyết tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo luật định

Với thực trạng thực hiện chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận như đã nêu ở trên, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện, áp dụng phổ biến. Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và áp dụng để giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng là những quy định tại các điều từ 33 đến 46 và các điều từ 59 đến 64 của Luật HN&GĐ năm 2014 và những quy định trong các văn bản quy định chi tiết thi hành. Khi ly hôn, những tranh chấp về tài sản của vợ chồng thường liên quan đến các vấn đề: xác định tài sản chung, tài sản riêng; cách thức phân chia tài sản chung và thực hiện nghĩa vụ về tài sản.

2.1. Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng khi ly hôn

Trong trường hợp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo luật định, khi ly hôn mà vợ chồng có tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng thì Tòa án giải quyết trên cơ sở các quy định tại các Điều 33, 43 Luật HN&GĐ năm 2014; quy định trong Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ và Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ. Ngoài ra, nếu quan hệ vợ chồng và quan hệ tài sản được xác lập trước ngày Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thì Tòa án áp dụng văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại thời điểm quan hệ đó được xác lập để giải quyết.

Khi ly hôn mà vợ chồng có tranh chấp về tài sản, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng là một việc làm phức tạp bởi vì các bên không còn tình cảm với nhau nên thường không nhân nhượng trong việc đòi hỏi về tài sản, thậm chí tranh chấp về những tài sản có giá trị nhỏ; hơn nữa, tài sản được vợ, chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân đã trải qua một thời kỳ với những biến động, thay đổi nhưng vợ, chồng không tạo ra các bằng cứ chứng minh về nguồn gốc hình thành tài sản riêng của mình.

Do đó, để xác định đúng về tài sản của vợ chồng cũng như công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản thì Tòa án cần phải xem xét, tìm hiểu các sự kiện liên quan trong suốt thời kỳ hôn nhân. Việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng dựa trên cơ sở xác minh, đánh giá đồng thời hai yếu tố cơ bản là thời điểm hình thành tài sản và nguồn gốc hình thành tài sản.

Về tài sản chung của vợ chồng, khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.

Về tài sản riêng của vợ, chồng, Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này”.

Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 33 của Luật này còn đưa ra một quy định rất quan trọng về suy đoán tài sản chung: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Theo quy định này, tài sản riêng phải được chứng minh, nếu không có bằng chứng về tài sản riêng thì tài sản đó được suy đoán là tài sản chung; tài sản chung không cần phải có chứng cứ chứng mình. Theo đó, trường hợp vợ chồng có tranh chấp về tài sản chung, tài sản riêng (một bên cho rằng đó là tài sản chung, bên kia cho rằng đó là tài sản riêng của họ) thì Tòa án yêu cầu người cho rằng tài sản thuộc sở hữu riêng phải đưa ra chứng cứ, nếu không có chứng cứ chứng minh về tài sản riêng, Tòa án không chấp nhận yêu cầu của người muốn đòi hỏi về tài sản riêng.

Về vấn đề này, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã từng hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 như sau: “Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất…), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải…).

Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng”. Về mặt pháp lý, văn bản này không còn hiệu lực và không thể là căn cứ cho việc giải quyết của Tòa án nhưng trên thực tế, nội dung của hướng dẫn nêu trên của Hội đồng Thẩm phán vẫn cần được các thẩm phán sử dụng như là cách hiểu quy định tại khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ hiện hành.

Như vậy, điều quan trọng nhất khi vợ, chồng có tranh chấp về tài sản riêng thì họ phải đưa ra chứng cứ chứng minh về tài sản riêng. Hậu quả của việc không có bằng chứng chứng minh về tài sản riêng là Tòa án sẽ coi đó là tài sản chung.

Tài sản chung của vợ chồng còn có khả năng được tăng thêm nhờ vào việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, vợ, chồng có quyền “nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung” (khoản 1 Điều 44) và “Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng” (khoản 1 Điều 46).

Về hậu quả pháp lý, tài sản riêng của vợ, chồng đã được nhập vào tài sản chung theo quy định của pháp luật trở thành tài sản chung của vợ chồng. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng khi ly hôn liên quan nhiều đến trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng đã để cho các thành viên trong gia đình sử dụng tài sản của mình trong một thời gian dài, có trường hợp vợ, chồng cùng đóng góp cải tạo làm tăng giá trị cảu tài sản (ví dụ, xây nhà trên đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng; cải tạo nhà ở…);

Khi ly hôn, bên vợ/chồng không phải là chủ sở hữu tài sản cho rằng tài sản này đã được nhập vào tài sản chung của vợ chồng và yêu cầu được chia một phần tài sản. Trong các trường hợp này, bên vợ/chồng cho rằng tài sản đã được nhập vào tài sản chung phải xuất trình cho Tòa án tài liệu thể hiện sự thỏa thuận của vợ và chồng về việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung; nếu không có tài liệu chứng minh, Tòa án vẫn xác định tài sản riêng của vợ/chồng theo nguồn gốc ban đầu vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của vợ/chồng.

2.2. Chứng minh thỏa thuận nhập tài sản riêng thành tài sản chung

Việc chứng minh về sự thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ và chồng không phải là việc làm dễ dàng. Trong thực tiễn, các Tòa án thường coi việc bên vợ/chồng có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở trước khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân đã làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và các tài sản khác gắn liền với đất mang tên vợ và chồng thể hiện vợ chồng đã có thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

Để rõ ràng về quyền lợi của vợ, chồng và tránh những tranh chấp xảy ra khi ly hôn về vấn đề tài sản đã được nhập vào tài sản chung hay chưa, ngoài các tài sản mà pháp luật quy định giao dịch phải được thực hiện theo hình thức văn bản, có công chứng hoặc chứng thực (do đó, việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung cũng phải tuân theo hình thức này), khi vợ chồng thống nhất nhập tài sản riêng vào tài sản chung thì họ cũng nên lập thành văn bản về sự thỏa thuận này, có chữ ký của vợ và chồng hoặc thể hiện theo một hình thức nào đó để có thể minh chứng cho sự thỏa thuận của vợ chồng.

Đối với tài sản chung do vợ và chồng được tặng cho chung, thực tiễn xác nhận nhiều tranh chấp liên quan đến việc cha mẹ bên vợ hoặc bên chồng tuyên bố cho vợ và chồng tài sản nhưng không lập thành văn bản, khi vợ chồng ly hôn thì cha mẹ đòi lại tài sản với lý do chỉ cho vợ chồng sử dụng. Đây cũng là một loại vụ việc mà việc chứng minh về sự kiện được tặng cho chung gặp nhiều khó khăn. Nhiều Tòa án không có sự thống nhất trong việc đánh giá là cha mẹ đã tặng cho vợ chồng hay chỉ cho họ sử dụng. Vấn đề phần nào được giải quyết từ khi Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao công bố Án lệ số 03/2016 ngày 06/4/201688. Vấn đề còn lại chưa được giải quyết, đó là các trường hợp không có đầy đủ các tình tiết tương tự (chẳng hạn, vợ chồng sống ổn định lâu dài trên đất, đã xây dựng nhà ở kiên cố nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đứng tên cha mẹ) thì giải quyết thế nào? Để tháo gỡ khó khăn cho những trường hợp này, Tòa án nhân dân tối cao cần đẩy mạnh hơn nữa việc thông qua nhiều án lệ, trong đó có án lệ về vấn đề này.

3. Hỗ trợ giải quyết phân chia tài sản chung của vợ chồng tại thành phố Đà Nẵng

Như đã phân tích ở trên, việc phân định tài sản chung, tài sản riêng trong nhiều trường hợp không hề đơn giản. Thêm vào đó là các thỏa thuận về việc tách thành tài sản riêng hoặc gộp thành tài sản chung ở các thời điểm khác nhau, cách thức thỏa thuận khác nhau sẽ dẫn tới việc chứng minh khác nhau.

Theo nguyên tắc của Bộ luật Dân sự, các đương sự có nghĩa vụ chứng minh. Theo đó, nếu không chứng minh được, có khả năng sẽ bị mất quyền lợi rất lớn. Do đó, để đảm bảo tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của mình, mọi người có thể liên hệ trực tiếp Công ty luật TNHH Dương Gia để được tư vấn, hỗ trợ pháp lý theo hotline 19006586.

Là Công ty luật hoạt động nhiều năm, có kinh nghiệm trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, chúng tôi sẽ đưa ra giải pháp tối ưu cho vấn đề của bạn.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon