Hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

huong-thua-ke-khong-phu-thuoc-vao-noi-dung-di-chuc

Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong xã hội. Pháp luật thừa kế Việt Nam quy định cá nhân có quyền thể hiện nguyện vọng và định đoạt tài sản của mình sau khi chết dưới một hình thức pháp lý là di chúc. Tuy vậy quyền này không phải là tuyệt đối, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những người yếu thế, mất khả năng lao động Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định về các trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Bài viết này sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về các trường hợp này.

Căn cứ pháp lý

– Bộ luật Dân sự năm 2015;

1. Di chúc là gì?

Theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.

Điều kiện để một di chúc được coi là hợp pháp và có hiệu lực

Di chúc được xem là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện sau:

Thứ nhất, người lập di chúc phải có năng lực chủ thể. Năng lực pháp luật của cá nhân phát sinh từ khi cá nhân được sinh ra nhưng năng lực hành vi dân sự của cá nhân phát sinh đầy đủ khi người đó đạt đến một độ tuổi nhất định (đủ 18 tuổi). Vì vậy pháp luật quy định, người lập di chúc là người từ đủ 18 tuổi có đủ năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi nếu muốn lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

Thứ hai, người lập di chúc phải tự nguyện lập di chúc. Lập di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, khi xem xét tính tự nguyện của người lập di chúc, cần phải dựa vào sự thống nhất về mặt ý chí và việc thể hiện ý chí đó của họ trong nội dung di chúc. Do đó pháp luật quy định, người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.

Thứ ba, nội dung của di chúc không trái với quy định của pháp luật. Nội dung di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình sau khi chết và nội dung này phải phù hợp với quy định của pháp luật. Cụ thể, nội dung của di chúc không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Dân sự được quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ tư, hình thức di chúc không trái với quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc phải được lập thành văn bản, nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Với một số đối tượng đặc thù, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rõ hình thức di chúc cho từng đối tượng đó, cụ thể như sau:

Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định pháp luật.

Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực

2. Quyền hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Theo quy định tại Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015, thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nghĩa là những người được quy định tại điều này trong trường hợp không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật.

Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó”

Ở đây “không được người lập di chúc cho hưởng di sản” thể hiện người lập di chúc truất quyền hưởng di sản hoặc không đề cập đến những người nói trên trong di chúc. Trường hợp họ được hưởng di sản nhưng ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật thì họ phải được hưởng ít nhất bằng hai phần ba suất thừa kế nói trên.

Ví dụ: ông A chết để lại di sản 200 triệu đồng. Ông A có hai người con chung với bà B (đã qua đời) là C (26 tuổi) và D (14 tuổi). Trước khi chết, ông A có lập di chúc với nội dung để lại toàn bộ tài sản cho người con lớn là C. Theo nội dung di chúc, D không được hưởng bất kỳ di sản thừa kế nào. Tuy nhiên áp dụng quy định trên về “thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc” thì D (con chưa thành niên) sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.

Tức nếu di sản của ông A được chia theo pháp luật thì hàng thừa kế thứ nhất chỉ có C và D. Vậy, 200 triệu đồng di sản thừa kế sẽ được chia hai, mỗi người được hưởng 100 triệu. Như vậy khi áp dụng quy định về “thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”, D sẽ được hưởng 2/3 của 100 triệu, tức khoảng 66,7 triệu đồng. Tất cả phần di sản còn lại sau khi chia cho D sẽ do C thừa kế theo đúng di chúc của ông A.

3. Đối tượng được thừa kế di sản không phụ thuộc vào nội dung chi chúc

Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các đối tượng sau đây được “hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”:

Con chưa thành niên

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015, cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật đối với con chưa thành niên. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nêu rõ cha, mẹ có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con, pháp luật về thừa kế quy định con chưa thành niên là một trong các đối tượng được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Pháp luật về thừa kế không quy định thời điểm xác định con chưa thành niên. Tuy nhiên trên thực tế, thời điểm Tòa án xác định tuổi con chưa thành niên được hưởng di sản là thời điểm mở thừa kế vì lúc này di chúc mới có hiệu lực.

Cha, mẹ của người để lại di sản

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định, con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ. Cho nên cha mẹ thuộc trường hợp hưởng di sản thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định rõ cha, mẹ là cha, mẹ đẻ hay cha, mẹ nuôi nên trong trường hợp này cha, mẹ thuộc đối tượng thừa kế không theo di chúc được xác định bao gồm cả cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi. Cha, mẹ nuôi là cha, mẹ nuôi hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình, Luật Nuôi con nuôi, Bộ luật dân sự và các luật khác liên quan.

Vợ, chồng của người để lại di sản

Vợ, chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Cho nên vợ, chồng là vợ, chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại thời điểm mở thừa kế được pháp luật xác định là người đương nhiên hưởng di sản thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Con thành niên không có khả năng lao động

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thành niên là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Như vậy, con thành niên là con từ đủ 18 tuổi trở lên tại thời điểm mở thừa kế. Lưu ý, ở đây Bộ luật Dân sự chỉ đề cập chung chung đến “con chưa thành niên” và “con thành niên”, không phân biệt con đẻ hay con nuôi; con trong giá thú hay ngoài giá thú.

Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định rõ như thế nào là “không có khả năng lao động” cho nên con thành niên được xác định là không có khả năng lao động là cá nhân tại thời điểm mở thừa kế được Tòa án xác định là không có khả năng lao động. Vì chưa có quy định rõ ràng nên có thể với mỗi Tòa án, thẩm phán khác nhau sẽ có những cách xem xét khác nhau để xác định.

4. Điều kiện để được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

Những người được hưởng di sản không phụ thuộc vào di chúc phải thỏa mãn các điều kiện sau để được hưởng thừa kế:

Thứ nhất, người thừa kế là cá nhân còn sống, theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.

Thứ hai, người được hưởng di sản không từ chối nhận di sản. Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

Thứ ba, không là đối tượng không được quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản

1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Ngời vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Đối tượng thuộc các trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Để được hưởng di sản thừa kế, cá nhân cần xác định xem có thuộc đối tượng và thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định hay không.

Thực chất, việc quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc là để bảo vệ những người yếu thế có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân với người lập di chúc trước những quyết định bất lợi với họ. Điều này là phù hợp cả trên phương diện pháp lý và phong tục, truyền thống đạo đức của dân tộc ta.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về các trường hợp hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Trường hợp có thắc mắc bạn vui lòng liên hệ theo số hotline 19006586 để được hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon