Người chưa thành niên có hoàn cảnh đặc biệt như không xác định được cha, mẹ, không còn cha, mẹ, hoặc có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự… là những đối tượng yếu thế cần có cá nhân hoặc pháp nhân tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do đó, pháp luật dân sự đã ghi nhận chế định giám hộ nói chung và giám hộ đương nhiên cho người chưa thành niên nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm đối tượng này trong các quan hệ xã hội. Bài viết nãy sẽ đi vào phân tích trường hợp người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật dân sự năm 2015;
– Luật hộ tịch năm 2014.
1. Thế nào là người giám hộ đương nhiên?
Người giám hộ đương nhiên là người có quan hệ thân thích với người được giám hộ và được pháp luật quy định là người giám hộ nếu có đủ điều kiện làm người giám hộ.
Thứ tự xác định người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên:
Theo đó, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên mà không còn cả cha và mẹ; không xác định được cha, mẹ; cả cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ; cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc; giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu, được xác định như sau:
– Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
– Trường hợp không có người giám hộ là anh hoặc chị thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.
– Trường hợp không có người giám hộ là anh, chị hoặc ông bà thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ.
Thứ tự này được xác định từ anh ruột, chị ruột đến ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại cuối cùng là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột. Quy định như vậy nhằm tiếp tục phát huy truyền thống gia đình của người Việt Nam bởi quan hệ thân thích, họ hàng làm cho mối quan hệ của người Việt trở nên gắn bó, thương yêu và đoàn kết với nhau hơn. Hơn nữa quy định như vậy cũng phù hợp với quy định về hàng thừa kế tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.
Thuật ngữ “người giám hộ đương nhiên” trong tiếng Anh là “Natural guardian”.
2. Người chưa thành niên cần được giám hộ
Người chưa thành niên cần được giám hộ trong các trường hợp sau:
– Thứ nhất, người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha mẹ. Người chưa thành niên không còn cha, mẹ trường hợp cha, mẹ đều đã chết (chết về mặt sinh học hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, tuyên bố bị mất tích theo thủ tục giải quyết việc dân sự).
Người chưa thành niên không xác định được cha mẹ là trường hợp người chưa thành niên khi sinh ra bị cha, mẹ bỏ rơi hoặc vì một lý nào đó mà người chưa thành niên không thể xác định được cha, mẹ của mình.
– Thứ hai, người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Việc xác định cha, mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác định trên cơ sở quyết định của Tòa án về việc tuyên bố một người là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có các căn cứ theo quy định của các Điều 22, Điều 23 và Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015.
– Thứ ba, người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con. Tòa án tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con khi cha mẹ có một trong những hành vi đối với con được quy định tại Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể là: Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản của con; có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
3. Điều kiện của người giám hộ đương nhiên
Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên chỉ có thể là cá nhân. Theo đó, điều kiện để cá nhân trở thành người giám hộ nói chung và người giám hộ đương nhiên của người chưa thành được quy định như sau:
– Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
– Có tư cách đạo đức tốt và các điều kiện cần thiết để thực hiện quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.
– Không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác.
– Không phải là người bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.
4. Thủ tục đăng ký giám hộ đương nhiên
Để đăng ký giám hộ đương nhiên, cần phải chuẩn bị hồ sơ gồm các giấy tờ sau:
– Tờ khai đăng ký giám hộ theo mẫu.
– Giấy tờ chứng minh điều kiện giám hộ đương nhiên theo quy định của Bộ luật dân sự cho cơ quan đăng ký hộ tịch.
Thẩm quyền đăng ký giám hộ:
Việc đăng ký giám hộ đương nhiên được tiến hành tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ hoặc người giám hộ.
Trình tự đăng ký giám hộ đương nhiên:
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ , nếu thấy đủ điều kiện theo quy định pháp luật thì công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch và cùng người đi đăng ký giám hộ ký vào Sổ hộ tịch, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.
5. Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đương nhiên
Quyền và nghĩa vụ của người giám hộ đương nhiên được quy định cụ thể tại điều 55, điều 56 Bộ luật dân sự năm 2015, có thể cụ thể thành 3 nhóm quyền và nghĩa vụ sau:
– Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ người giám hộ
Người chưa thành niên thuộc đối tượng cần được chăm sóc, giáo dục đầy đủ và được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nên người giám hộ với vai trò của mình có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục và bảo vệ người được giám hộ.
+ Đối với người được giám hộ chưa đủ 15 tuổi: Theo quy định tại Điều 55 Bộ luật dân sự 2015, người giám hộ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, tạo điều kiện cho người được giám hộ học tập và giáo dục đối với người được giám hộ chưa đủ mười lăm tuổi. Giai đoạn dưới mười lăm tuổi rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người vì vậy, sự chăm sóc, giáo dục của người giám hộ đối với người được giám hộ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức của người được giám hộ là người chưa đủ mười lăm tuổi.
+ Đối với người được giám hộ từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi: Bộ luật dân sự 2015 không quy định người giám hộ có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục đối với người được giám hộ từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi bởi người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã có mức độ phát triển về thể chất và tinh thần cũng như khả năng hiểu biết nhất định, có năng lực hành vi dân sự một phần tuy nhiên họ vẫn cần được chăm sóc và giáo dục để hoàn thiện thể chất và nhân cách.
Khoản 4 Điều 55, khoản 4 Điều 56 Bộ luật dân sự 2015 còn quy định nghĩa vụ của người giám hộ: “Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giảm hộ” đối với người được giám hộ là người chưa thành niên. Theo đó, khi quyền dân sự của người được giám hộ bị xâm phạm, thì người giám hộ có quyền thực hiện các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.
– Đại diện cho người được giám hộ:
Người giám hộ có nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người chưa thành niên có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Cụ thể:
+ Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.
– Những quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 55, khoản 2 Điều 56 Bộ luật dân sự 2015, người giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản của người được giám hộ là người chưa thành niên. Đối với người được giám hộ là người chưa thành niên, người giám hộ có quyền sử dụng tài sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ (thường được thể hiện ở các lĩnh vực ăn, mặc, ở, học hành, đi lại hoặc chi dùng cho việc chữa bệnh…);
Được thanh toán các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người được giám hộ, để xác định chi phí đó là cần thiết hay không căn cứ vào tính hợp lý của việc chi dùng, ý nghĩa, mục đích của việc chi dùng và lợi ích của người được giám hộ (điểm a, b khoản 1 Điều 58 Bộ luật dân sự 2015).
Việc Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc người giám hộ quản lý tài sản của người được giám hộ vừa để phục vụ đời sống sinh hoạt bình thường của người được giám hộ và bảo vệ tài sản để bảo đảm cuộc sống lâu dài của họ, tránh việc lạm dụng để trục lợi cho người giám hộ trong một mối quan hệ mà người được giám hộ là người yếu thế hơn.
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006568 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.