Quy định mới nhất về quyền sở hữu tài sản theo Bộ luật Dân sự năm 2015

quy-dinh-moi-nhat-ve-quyen-so-huu-tai-san-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015

Sau một quá trình dài sửa đổi Bộ luật Dân sự (sau đây gọi là “BLDS”), ngày 24/11/2015, Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật Dân sự (sửa đổi) số 91/2015, được gọi là BLDS năm 2015, phát sinh hiệu lực vào ngày 1/1/2017. Có rất nhiều các nội dung quan trọng được sửa đổi một cách căn bản và được bổ sung mới vào BLDS năm 2015, trong đó chế định quyền sở hữu cũng là một trong số các nội dung có nhiều điểm thay đổi như về nội dung quyền sở hữu, hình thức sở hữu, các căn cứ xác lập quyền sở hữu và một số nội dung khác. Bài viết tập trung vào phân tích, bình luận các điểm mới về quyền sở hữu trong BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005, qua đó đánh giá những điểm tích cực trong sự sửa đổi của BLDS năm 2015 và đồng thời chỉ ra một số hạn chế cần khắc phục.

1. Khái quát chung về quyền sở hữu

Sở hữu là một trong những chế định cơ bản, quan trọng trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đây là một quan hệ trung tâm, tác động và ảnh hưởng tới nhiều các quan hệ khác trong đời sống xã hội. Có nhà khoa học pháp lý đã nhận định, “các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ quan hệ sở hữu và cũng vì quan hệ sở hữu, quan hệ sở hữu là tiền đề, là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ khác”[1]. Từ trước đến nay, có rất nhiều các công trình từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ nghiên cứu về quyền sở hữu. Tựa chung lại, quyền sở hữu được nghiên cứu và nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới mỗi góc độ, quyền sở hữu lại có cách thức định nghĩa riêng.

Hiểu theo nghĩa rộng, quyền sở hữu chính là pháp luật về sở hữu trong một hệ thống pháp luật. Theo đó, “Quyền sở hữu là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định tại Điều 163 BLDS”[2]. Pháp luật về quyền sở hữu ngày càng được hoàn thiện qua các giai đoạn thời gian khác nhau, trong đó các vấn đề cốt lõi được quy định bao gồm: nội dung quyền sở hữu, thời điểm xác lập quyền sở hữu, hình thức sở hữu, căn cứ xác lập và chấm dứt quyền sở hữu, các phương thức bảo vệ quyền sở hữu…

Còn hiểu theo nghĩa hẹp, “Quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong những điều kiện nhất định”[3]. Nhìn dưới góc độ này, định nghĩa về quyền sở hữu được nhìn nhận là một quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản theo ý chí của mình mà không phải phụ thuộc vào sự tác động của các chủ thể khác. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền của chủ sở hữu cũng phải tuân theo một số giới hạn do pháp luật quy định.

Ngoài ra, quyền sở hữu còn được xem xét dưới góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự. Dưới khía cạnh này, quan hệ sở hữu bao gồm đầy đủ các yếu tố chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ. Chủ thể của quan hệ sở hữu chính là chủ sở hữu với tư cách chủ thể quyền và các chủ thể nghĩa vụ là tất cả những người còn lại có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ sở hữu; khách thể của quan hệ sở hữu chính là các loại tài sản; còn nội dung trong quan hệ sở hữu bao gồm các quyền và nghĩa vụ các các bên chủ thể trong quan hệ này. Dưới góc độ kinh tế, quan hệ sở hữu đóng vai trò quan trọng, đồng thời từ quan hệ sở hữu mà kéo theo đó làm phát sinh thêm những quan hệ pháp luật khác.Quyền sở hữu là một quan hệ pháp luật dân sự tuyết đối. Điều này thể hiện ở chỗ, trong quan hệ sở hữu, chỉ xác định cụ thể được chủ thể mang quyền; còn chủ thể mang nghĩa vụ không được xác định cụ thể mà bao gồm tất cả những người còn lại có nghĩa vụ tôn trọng quyền sở hữu của chủ sở hữu. Đồng thời, quyền sở hữu là một vật quyền cơ bản, quan trọng nhất trong hệ thống vật quyền.

2. Những điểm mới của quyền sở hữu trong BLDS năm 2015

Trong Phần thứ Hai của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, trong đó Chương XXIII quy định riêng về quyền sở hữu đã có nhiều thay đổi căn bản và trọng tâm cả về kết cấu, vị trí cũng như những nội dung cụ thể các điều luật.

2.1. Điểm mới về kết cấu, vị trí của chế định quyền sở hữu trong BLDS năm 2015

Trong BLDS năm 2005, quyền sở hữu được quy định tại Phần thứ Hai của BLDS với tiêu đề “Tài sản và quyền sở hữu”. Phần thứ Hai bao gồm các chương với các nội dung cụ thể như: Chương X. Những quy định chung; chương XI. Các loại tài sản; Chương XII. Nội dung quyền sở hữu với ba mục là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt; chương XIII. Các hình thức sở hữu; chương XIV. Xác lập, chấm dứt quyền sở hữu; chương XV. Bảo vệ quyền sở hữu và chương XVI. Những quy định khác về quyền sở hữu.

BLDS năm 2015 vẫn tiếp tục tái kết cấu quy định về quyền sở hữu tại Phần thứ Hai của Bộ luật giống với kết cấu của BLDS năm 2005. Nhưng nội dung trong Phần này khác với BLDS năm 2005, trong BLDS năm 2005 thì Phần thứ Hai quy định về tài sản và quyền sở hữu thì BLDS năm 2015 quy định về Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản; còn vấn đề tài sản được quy định trong chương VII Phần thứ Nhất về Những quy định chung.

Tương tự như BLDS năm 2005, chương đầu tiên (chương XI) trong phần thứ Hai của BLDS năm 2015 cũng quy định về những vấn đề chung liên quan đến quyền sở hữu. Tuy nhiên, nội dung được quy định trong những vấn đề chung được mở rộng hơn so với BLDS năm 2005 khi bao gồm cả những quy định về bảo vệ quyền sở hữu, giới hạn của quyền sở hữu…(Trong BLDS năm 2005, những nội dung này được ghi nhận tại một chương độc lập của phần thứ Hai mà không nằm trong phần những quy định chung như kết cấu của BLDS năm 2015). Việc đưa những nội dung về bảo vệ quyền sở hữu, giới hạn quyền sở hữu vào chương những quy định chung về quyền sở hữu là hợp lý. Vì đây chính là những vấn đề được áp dụng chung liên quan đến quyền sở hữu.

Một điểm khác biệt rõ nét trong kết cấu về quyền sở hữu giữa BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 liên quan đến nội dung chiếm hữu tài sản. Trong BLDS năm 2005, chiếm hữu tài sản chỉ được nhìn nhận dưới góc độ là quyền của chủ sở hữu nên quyền chiếm hữu được ghi nhận với tư cách là một trong các nội dung cụ thể của quyền sở hữu. Nhìn nhận lại vấn đề một cách đúng đắn, chiếm hữu không chỉ là quyền của chủ sở hữu mà còn để chỉ một thực trạng chiếm hữu trên thực tế của các chủ thể khác. Do đó, BLDS năm 2015 đã kết cấu nội dung chiếm hữu với tính chất là một thực trạng pháp lý tại chương XII của phần thứ Hai (Nội dung này không được kết cấu trong BLDS năm 2005).

Ngoài ra, kết cấu ở phần hình thức sở hữu cũng có sự thay đổi căn bản. Dựa trên sự định hướng và phân chia lại các hình thức sở hữu, BLDS năm 2015 chỉ kết cấu hình thức sở hữu thành 3 tiểu mục về sở hữu toàn dân; sở hữu riêng và sở hữu chung, trong khi đó, BLDS năm 2005 quy định các hình thức thành 6 mục tương ứng với các hình thức sở hữu như: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.

2.2. Những điểm mới trong quy định về nội dung quyền sở hữu

Trong quá trình sửa đổi BLDS năm 2005, rất nhiều các nhiều nhà nghiên cứu luật đã kiến nghị nên tư duy mới và thay đổi về nội dung quyền sở hữu cho chính xác và tiệm cận với pháp luật của các nước trên thế giới. Mặc dù vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nội dung quyền sở hữu, nhưng qua quá trình sửa đổi, lấy ý kiến và chỉnh lý cuối cùng thì hiện nay, BLDS năm 2015 vẫn kế thừa nguyên nội dung quyền sở hữu theo quy định tại Điều 164 BLDS năm 2005, theo đó: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm chữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật” (Điều 159 BLDS năm 2015).

2.2.1. Quyền chiếm hữu

So với BLDS năm 2005, cách hiểu về quyền chiếm hữu có sự đổi mới. Cụ thể, BLDS năm 2005 quy định quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản; trong khi đó, BLDS  năm 2015 dùng lại định nghĩa quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, chi phối tài sản. Theo quan điểm của tác giả, chi phối bao hàm cả việc quản lý và được hiểu rộng hơn. Việc chi phối được hiểu là ngay cả trường hợp tài sản đã chuyển giao sang cho chủ thể khác cầm giữ, quản lý hay sử dụng thì chủ sở hữu vẫn còn tiếp tục được chi phối tới tài sản. Bởi suy cho cùng thì tài sản vẫn là của chủ sở hữu nên họ có quyền giám sát, chi phối tài sản của họ là điều hợp lý.

Như đã phân tích ở trên, BLDS năm 2015 bổ sung chế định chiếm hữu với tính chất là một tình trạng pháp lý được ghi nhận tại Chương XII. Việc phân biệt cụ thể giữa “quyền chiếm hữu” (với tư cách là một quyền năng của chủ sở hữu) và chiếm hữu (với tư cách là một tình trạng pháp lý) là điều cần thiết, tránh những nhầm lẫn không đáng có giữa hai nội dung này.

“Quyền chiếm hữu” với tính chất là một trong các quyền năng của chủ sở hữu, nên khi đã xác định được chính xác chủ sở hữu thì lúc này việc chiếm hiễm hữu tài sản được xác định là “quyền”. Còn việc chiếm hữu tài sản của một chủ thể trong xã hội chỉ phản ánh thực tế chiếm hữu của người đó chứ chưa chắc chủ thể này đã thực sự có “quyền” trong việc chiếm hữu tài sản đó. Đây là lý do BLDS năm 2015 dùng thuật ngữ “quyền chiếm hữu”“chiếm hữu” để quy định về hai nội dung này.

Quyền chiếm hữu là một quyền năng của quyền sở hữu, nên quyền chiếm hữu là kết quả của quyền sở hữu mang lại. Bên cạnh đó, nhiều quy định trong BLDS xuất phát từ tình trạng chiếm hữu của một chủ thể mà qua đó xác lập quyền sở hữu đối với vật – chiếm hữu được coi là điều kiện để xác lập quyền, như các quy định: xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu; xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm chưa được tìm thấy…

Việc ghi nhận “chiếm hữu” vào BLDS năm 2015 có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn đời sống xã hội: người đang thực tiễn chiếm hữu sẽ được suy đoán là chiếm hữu ngay tình và được bảo vệ trước sự xâm phạm của các chủ thể khác. Nếu các chủ thể khác muốn bác bỏ việc chiếm hữu của một chủ thể là không ngay tình thì phải chứng minh (Điều 184, Điều 185 BLDS năm 2015). Với ghi nhận này, BLDS năm 2015 đã phản ánh đúng thực tế trong xã hội và ổn định các quan hệ xã hội. Bởi nếu có tranh chấp xảy ra liên quan đến tài sản chiếm hữu thì không thể mọi trường hợp đều bắt các bên tranh chấp phải chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản được, thậm chí trong một số trường hợp không thể chứng minh được quyền sở hữu. Bởi vậy, trước  tiên người được bảo vệ trong trường hợp này là người đang thực tế chiếm hữu.

Bên cạnh những sửa đổi và bổ sung hợp lý, thì đối với quyền chiếm hữu cũng có một điểm mới mà theo quan điểm của tác giả cũng cần phải nhìn nhận lại cho đích xác. Theo quy định tại Điều 182 BLDS năm 2015: “Chiếm hữu liên tục là việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không có tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu”. Tinh thần của Điều luật này vẫn được kế thừa như theo Điều 190 BLDS năm 2005. Theo quy định này, tiêu chí để xác định tính liên tục của việc chiếm hữu là dựa vào việc có hay không có tranh chấp xảy ra trong quá trình chiếm hữu. Việc đưa ra tiêu chí xác định như theo quy định là không chính xác. Bởi, chiếm hữu liên tục hay không liên tục là muốn đề cập tới vấn đề có sự gián đoạn về thời gian hay không trong quá trình chiếm hữu; còn sự kiện có tranh chấp xảy ra lại liên quan đến vấn đề bất đồng quyền lợi giữa các bên chủ thể trong trong tranh chấp. Do đó, việc dùng tiêu chí có hay không có tranh chấp về tài sản trong thời gian chiếm hữu để xác định việc chiếm hữu là liên tục hoặc không liên tục là chưa chính xác.

2.2.2. Quyền sử dụng

Về cơ bản, quyền sử dụng không có nội dung gì mới so với BLDS năm 2005.

2.2.3. Quyền định đoạt     

Điều 195 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Quy định này đã không bao quát được hết đầy đủ các trường hợp định đoạt tài sản. Theo sự phân loại, quyền định đoạt bao gồm định đoạt số phận pháp lý và định đoạt số phận thực tế của tài sản. Định đoạt số phận pháp lý là việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản thông qua các hợp đồng như mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay. Định đoạt số phận thực tế được hiểu là chủ sở hữu tự bằng hành vi của mình để quyết định về số phận của tài sản như: từ bỏ quyền sở hữu, tiêu hủy…

Khắc phục những thiếu sót của Điều 195 BLDS năm 2005, Điều 192 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản”. Quy định này đã bao quát đầy đủ các trường hợp định đoạt số phận thực tế của tài sản khi bổ sung thêm hai trường hợp: tiêu dùng (đối với vật tiêu hao) hoặc tiêu hủy tài sản.

2.3. Điểm mới trong quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu

Trước hết, về tên gọi, Điều 168 BLDS năm 2005 sử dụng tiêu đề “Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản”; trong khi đó, Điều 161 BLDS năm 2015 lại sửa đổi thành “Thời điểm xác lập quyền sở hữu”. Rõ ràng, trong hai tiêu đề luật thì việc dùng tiêu đề như BLDS năm 2015 chính xác hơn. Bởi, thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản muốn nhấn mạnh đến thời điểm chấm dứt quyền sở hữu của một bên nhiều hơn là tập trung vào thời điểm khi nào một chủ thể được bắt đầu có quyền sở hữu. Hơn thế nữa, không phải mọi trường hợp sở hữu tài sản đều được thông qua việc “chuyển quyền sở hữu” bởi dùng thuật ngữ “chuyển quyền” đa phần mọi người đều nghĩ là phải có hai bên chủ thể cùng tiến hành chuyển giao tài sản cho nhau. Nhưng bên cạnh đó, còn có rất nhiều trường hợp một người được xác lập sở hữu không phải thông qua việc chuyển giao từ người khác như: xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm thất lạc…Bởi vậy, dùng thuật ngữ “thời điểm xác lập quyền sở hữu” là bao quát đầy đủ cho tất cả mọi trường hợp xác lập quyền sở hữu.

Không chỉ có sự thay đổi về tên gọi. Về nội dung, Điều 168 BLDS năm 2005 ghi nhận: Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong khi đó, Điều 161 BLDS năm 2015 đã phát triển thêm một bước dài khi thừa nhận sự thỏa thuận của các bên về thời điểm xác lập quyền sở hữu. Theo đó, thời điểm xác lập quyền sở hữu được xác định lần lượt theo các thứ tự sau đây:

+ Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;

+ Trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên;

 + Trường hợp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.

Với việc công nhận sự thỏa thuận của các bên về thời điểm xác lập quyền sở hữu đã tạo điều kiện pháp lý cho các bên được quyền tự do ý chí, thống nhất với nhau về thời điểm cụ thể. Quy định này đã mở rộng thêm quyền cho các bên trong các giao dịch chuyển giao quyền sở hữu.

2.4. Các căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu

Về cơ bản, các căn cứ phát sinh và chấm dứt quyền sở hữu được ghi nhận trong BLDS năm 2015 kế thừa các quy định BLDS năm 2005. Tuy nhiên, đối với một số căn cứ xác lập quyền sở hữu cụ thể đã có những sửa đổi cần thiết, phù hợp và đã phần nào khắc phục được những hạn chế, thiếu sót trong BLDS năm 2005.Một điểm sửa đổi chung ở trong phần này là, thay vì sử dụng thuật ngữ “vật” như BLDS năm 2005 thì các Điều luật trong BLDS năm 2015 đã dùng thuật ngữ “tài sản” như “tài sản vô chủ, tài sản không xác định chủ sở hữu”, “tài sản bị chôn, giấu…”, “tài sản bị đánh rơi, bỏ quên”… Việc thay đổi thuật ngữ này là hoàn toàn hợp lý, cần thiết và đã khắc phục được hạn chế các quy định tương ứng trong BLDS năm 2005. Thuật ngữ “tài sản” rộng hơn thuật ngữ “vật”, bao quát hết được hết các tài sản không phải là vật. Ngoài ra, trong một căn cứ xác lập quyền sở hữu còn có sự sửa đổi cụ thể khác, bao gồm:

Thứ nhất, quy định cụ thể về xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ.

Điều 233 BLDS năm 2005 chỉ ghi nhận “xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp”; trong khi đó Điều 222 BLDS năm 2015 quy định bổ sung thêm: Người tiến hành hoạt động sáng tạo có quyền sở hữu đố với tài sản có được từ hoạt động sáng tạo theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ”. Quyền sở hữu trí tuệ đang và ngày càng đóng quan trọng trong đời sống xã hội. Kể cả trước khi chưa có bổ sung mới trong BLDS năm 2015 liên quan đến tài sản trí tuệ thì pháp luật cũng đã thừa nhận quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu của những chủ thể sáng tạo ra quyền. Tuy nhiên, với việc ghi nhận một cách chính thức, trực tiếp trong BLDS năm 2015 càng tạo ra cơ sở vững chắc đối với căn cứ xác lập các tài sản trí tuệ.

Trong quá trình sửa đổi, nhiều ý kiến cho rằng việc quy định thêm như BLDS năm 2015 là không cần thiết, bị thừa. Bởi, ngay cụm từ được quy định trong BLDS năm 2005 xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp” đã bao gồm cả trường hợp xác lập quyền sở hữu đối với các tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, theo quan điểm tác giả, việc lý giải như vậy chưa thực sự thuyết phục. Bởi lẽ, giữa hoạt động lao động, sản xuất ra các tài sản thông thường và hoạt động sáng tạo ra các tài sản sở hữu trí tuệ không giống nhau nên việc bổ sung thêm là cần thiết.

Thứ hai, bổ sung chủ thể được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ

Điều 239 BLDS năm 2005 quy định: Người đã phát hiện vật vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó theo quy định của pháp luật; nếu vật được phát hiện là bất động sản thì thuộc Nhà nước”. So với điều luật hiện hành, bên cạnh người phát hiện được xác lập quyền sở hữu thì BLDS năm 2015 dự liệu thêm trường hợp người đang quản lý tài sản vô chủ là động sản thì có quyền sở hữu tài sản đó. Trường hợp chủ sở hữu đồng thời là người đang quản lý tài sản, thực hiện việc từ bỏ tài sản thì người phát hiện ra được xác lập sở hữu; còn đối với trường hợp, tài sản đang do một người khác quản lý mà chủ sở hữu từ bỏ tài sản thì quyền sở hữu được xác lập cho người đang quản lý tài sản.

Thứ ba, tách căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản “chôn giấu” thành hai trường hợp độc lập “chôn”, “giấu”.

BLDS năm 2015 chỉ có một thay đổi rất nhỏ so với quy định tại BLDS năm 2015 nhưng lại tạo ra một khác biệt và hiệu quả lớn.

Theo đó, Điều 240 BLDS năm 2005 quy định: “Xác lập quyền sở hữu đối với vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy” thì Điều 229 thêm dấu “,” vào giữa cụm từ chôn giấu, cụ thể: “Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy”

Quy định như BLDS năm 2005 đã thu hẹp lại các trường hợp được giải quyết trên thực tế. Theo Điều 240 BLDS năm 2005 thì “chôn giấu” là một trường hợp, theo đó hành vi chôn tài sản xuống đất phải kèm theo mục đích giấu thì mới có thể áp dụng được quy định này. Vậy còn những trường hợp chỉ “chôn” nhưng chôn tài sản với mục đích công khai không giấu giếm hay thực hiện việc “giấu” tài sản nhưng không qua phương thức chôn thì giải quyết như thế nào (như trường hợp giấu tài sản vào đệm, vào đế giày, vào loa đài đã từng xảy ra trên thực tế). Việc tách “chôn”, “giấu” ra thành hai trường hợp độc lập khác nhau đã giải quyết được hạn chế của BLDS năm 2005, bao quát được một diện rộng các vụ việc xảy ra trên thực tế.

Ngoài ra, Điều 229 BLDS năm 2015 còn bổ sung thêm trường hợp “tài sản bị vùi lấp”. Quy định này giúp giải quyết được trường hợp xác lập sở hữu với những tài sản bị che khuất, phủ lấp bởi đất, đá, cát, lá…do sự tác động của khách quan.

Thứ tư, quy định cụ thể hơn về vấn đề phân chia gia súc con giữa chủ sở hữu và người bắt được gia súc.

Điều 242 BLDS năm 2005 chỉ quy định:Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra…”; còn Điều 231 BLDS năm 2015 quy định: Trong thời gian nuôi giữ gia súc bị thất lạc, nếu gia súc có sinh con thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra hoặc 50% giá trị số gia súc sinh ra”.

Quy định trong BLDS năm 2005 chỉ mới phù hợp với trường hợp số gia súc con sinh ra phải từ 02 con trở lên và phải là số chẵn thì mỗi bên mới có thể “hưởng một nửa số gia súc sinh ra”. Vậy trong những trường hợp, số gia súc con sinh ra chỉ có 01 con hoặc là số lẻ (ví dụ 03 con) thì không thể nào phân chia theo nguyên tắc đã được ghi nhận trong BLDS năm 2005 nên việc bổ sung thêm quy định chủ sở hữu và người bắt được có thể được phân chia theo nguyên tắc hưởng 50% giá trị số gia súc sinh ra là hoàn toàn phù hợp.

Thứ năm, bỏ đặc quyền của Nhà nước liên quan đến xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.

Khoản 2 Điều 247 BLDS năm 2005 quy định: Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó”. Quy định này đã tạo ra một lợi thế cho Nhà nước so với các chủ thể khác trong vấn đề bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình. Về nguyên tắc, trong các quan hệ dân sự, địa vị pháp lý của các chủ thể là hoàn toàn bình đẳng, ngang nhau. Bởi vậy, BLDS năm 2005 quy định một đặc quyền cho Nhà nước so với chủ thể khác là điều không mấy thuyết phục. Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng địa vị pháp lý giữa các chủ thể, Điều 236 đã bỏ khoản 2 Điều 247 không ghi nhận. Đây là một điều luật được hưởng ứng tích cực, đã cân bằng hài hòa lợi ích giữa những người dân và Nhà nước./.

[1] PGS.TS. Trần Thị Huệ, “Quyền sở hữu và quyền năng của chủ sở hữu”, chuyên đề cho Hội thảo khoa học cấp Trường do Bộ môn Luật Dân sự, Khoa pháp luật Dân sự tổ chức ngày 11/12/2007

[2] Giáo trình  Luật Dân sự Việt Nam tập 1 (2007), Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an Nhân dân, tr.178

[3] Giáo trình  Luật Dân sự Việt Nam tập 1 (2007), Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an Nhân dân, tr.178

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon