Các chế định mới về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự

cac-che-dinh-moi-ve-cac-truong-hop-loai-tru-tnhs

Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (TNHS) không những góp phần tháo gỡ những tồn tại trong thực tiễn xét xử, bảo đảm sự phù hợp với pháp luật hình sự các nước trên thế giới và hoàn thiện BLHS Việt Nam, mà còn thực hiện xu hướng nhân đạo hóa hơn nữa trong BLHS, cũng như bảo đảm tốt hơn nữa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Đặc biệt, việc hoàn thiện BLHS về vấn đề này còn nâng cao nhận thức của công dân về quyền và nghĩa vụ của mình – trường hợp nào thì hành vi gây thiệt hại cho xã hội phải chịu TNHS, là hành vi sai trái; còn trường hợp nào thì không phải chịu trách nhiệm, là việc làm có ích, nên làm, qua đó chủ động và tích cực phát huy tinh thần đấu tranh phòng, chống không khoan nhượng đối với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trong xã hộ. Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu nội dung về Chế định mới loại trừ TNHS qua bài viết sau đây.

Căn cứ pháp lý:

Bộ luật hình sự 2015.

1. Trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

Điều 24 BLHS năm 2015 với nội dung như sau:

“1. Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

2. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự.”

Hành vi dùng vũ lực bắt giữ người phạm tội trong nhiều trường hợp là cần thiết, nhưng Nhà nước chỉ cho phép dùng vũ lực với những điều kiện nhất định nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể con người. Chính vì vậy, Điều 24 BLHS năm 2015 quy định trường hợp gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội với các dấu hiệu pháp lý sau đây:

1.1. Đối tượng bị bắt giữ là người phạm tội đang có hành vi chống trả hoặc trốn tránh việc bắt giữ.

Người bị bắt giữ đã không tuân lệnh và có sự chống trả, trốn tránh và hành vi chống trả, trốn tránh đang xảy ra trên thực tế và có thể làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người bắt giữ hoặc ảnh hưởng đến khả năng trốn thoát của người phạm tội. Nếu không có sự chống trả hoặc không có sự trốn tránh của người phạm tội thì không được dùng vũ lực.

1.2. Chỉ được dùng vũ lực trong hoàn cảnh, điều kiện không còn biện pháp nào khác, biện pháp dùng vũ lực để bắt giữ người phạm tội là biện pháp duy nhất cuối cùng.

Người bắt giữ chỉ được sử dụng vũ lực khi không còn biện pháp nào khác để bắt giữ người phạm tội. Điều kiện này tương tự như điều kiện của tình thế cấp thiết (Điều 23 BLHS 2015). Việc sử dụng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp duy nhất cuối cùng. Điều này phải đặt trong tình huống cụ thể, trong hoàn cảnh không gian, thời gian, tương quan lực lượng, hành vi chống cự, mức độ cần thiết của sự ngăn chặn việc gây thiệt hại, khả năng tẩu thoát của người phạm tội.

1.3. Việc bắt giữ có thể gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người bị bắt giữ và được đánh giá là thiệt hại trong giới hạn cần thiết.

Việc gây thiệt hại trong giới hạn cần thiết để bắt giữ người phạm tội thì không bị coi là tội phạm. Đây là điều phức tạp nhất trong quá trình xem xét, cân nhắc đánh giá như thế nào là giới hạn cần thiết. Bởi nếu trong giới hạn cần thiết thì người dũng vũ lực gây thiệt hại cho người phạm tội khi bắt giữ sẽ không bị coi là tội phạm. Nếu người bắt giữ gây thiệt hại rõ ràng quá mức cần thiết thì phải chịu TNHS.

Cơ sở đánh giá này phải được xem xét, đánh giá toàn diện về các vấn đề liên quan đến việc bắt giữ người phạm tội.  Cơ sở đó có thể bao gồm:

– Mức độ chống trả của người phạm tội: sự chống trả của người phạm tội  là một căn cứ cần thiết để đánh giá mức độ cần thiết trong việc sử dụng vũ lực khi bắt giữ, bởi việc chống trả càng quyết liệt thì biện pháp bắt giữ cần thiết phải dùng vũ lực ở mức độ cao.

– Cơ sở đánh giá mức độ cần thiết còn dựa vào hoàn cảnh cụ thể xảy ra khi bắt giữ. Hoàn cảnh bắt giữ là nói đến không gian, thời gian, địa điểm nơi bắt giữ, các điều kiện khách quan khác để đánh giá việc có cần thiết dùng vũ lực hay không.

– Mặt khác, cần đánh giá sự cần thiết và giới hạn dùng vũ lực qua đối tượng bị bắt giữ.

Đối tượng nguy hiểm phạm các tội về an ninh quốc gia, các tội phạm ma túy hoặc đối tượng nhiều tiền án, tiền sự luôn có vũ khi nóng…  thì sự cần thiết và mức độ dùng vũ lực để bắt giữ được đánh khác với các trường hợp lần đầu phạm tội bỏ trốn. Hoặc đối tượng bị truy nã là đối tượng đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh gia, đối tượng đang vượt qua khu vực biên giới trên bộ, nếu không ngăn chặn thì việc qua biên giới là hoàn toàn hiện thực mà không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn thì buộc phải nổ súng và rất có thể gây thương tích nặng cho đối tượng.

2. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ

Điều 25 BLHS năm 2015 quy định: “ Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Trong lĩnh vực khoa học, việc đi tiên phong là rất quan trọng, bởi có như vậy mới có thể thúc đẩy khoa học phát triển nhằm đưa ra các kết luận khoa học được áp dụng trên thực tế. Song việc quy định chế định này cũng phòng ngừa việc thử nghiệm áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật thiếu sự cẩn trọng cần thiết, không tuân thủ đầy đủ các quy trình, quy phạm trong nghiên cứu thử nghiệm khoa học. Việc bổ sung chế định này trong BLHS 2015 hiện nay là rất cần thiết.

Hiện nay, tuy BLHS chưa có giải thích chính thức, nhưng nhiều ý kiến cho rằng việc nghiên cứu thử nghiệm… phải là những trường hợp người nghiên cứu, thử nghiệm đã đăng ký, đã ký kết hợp đồng nghiên cứu khoa học với các cơ quan có thẩm quyền.

Nếu người không tuân thủ đầy đủ quy trình, quy phạm bắt buộc trong thực nghiệm khoa học hoặc không tuân thủ đầy đủ các biện pháp phòng ngừa rủi ro nên khi áp dụng, thực nghiệm những giải pháp, sáng kiến khoa học mới đã gây thiệt hại cho xã hội thì được coi là người có lỗi nên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

3. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên

Điều 26. BLHS năm 2015 quy định: Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên với nội dung như sau:

“Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.

Quy định này không áp dụng đối với các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 421, khoản 2 Điều 422 và khoản 2 Điều 423 của Bộ luật này.

Điều 26 BLHS năm 2015 với các nội dung chủ yếu sau đây:

Một là, việc chấp hành mệnh lệnh mà gây ra thiệt hại cho xã hội chỉ được áp dụng trong lực lượng vũ trang nhân dân. Còn việc thực hiện mệnh lệnh hành chính trong các lĩnh vực khác mà gây thiệt hại thì không được loại trừ TNHS.

Ở Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân và Dân quân tự vệ (Điều 12 Luật quốc phòng năm 2005). Trong đó, lực lượng Quân đội đặt dưới sự quản lý của Bộ Quốc phòng và chịu sự điều động của Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng Công an bao gồm An ninh và Cảnh sát, chịu sự quản lý của Bộ Công an. Riêng lực lượng Dân quân – Tự vệ là lực lượng có sự quản lý hỗn hợp của Bộ Quốc phòng và cơ quan hành chính địa phương.

Hai là, người chấp hành mệnh lệnh khi thấy có vấn đề không bình thường phải báo cáo đầy đủ với người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành.

Đây là trường hợp sau khi nhận mệnh lệnh, người phải chấp hành lệnh đã báo cáo lại việc chấp hành mệnh lệnh có những khó khăn và có thể gây ra thiệt hại cho xã hội với người ra mệnh lệnh, nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó thì người này phải chấp hành mệnh lệnh.

Ba là, người thi hành mệnh đã thực hiện mệnh lệnh nên gây thiệt hại cho xã hội. Hậu quả thiệt hại cho xã hội có thể là thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng con người.

Việc luật Hình sự quy định người chấp hành mệnh lệnh trong lực lượng vũ trang không phải chịu TNHS, xuất phát từ đặc thù của lực lượng vũ trang khi thực thi nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc cũng như đảm bảo trật tự an toàn xã hội phải luôn chấp hành mệnh lệnh một cách khẩn trương, nhanh chóng và chính xác. Điều 2 trong mười lời thề của Quân đội nhân dân Việt Nam mà bất kỳ quân nhân nào cũng phải thuộc, đó là: “ Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác.”. Như vậy, trong Quân đội cấp dưới phụ tùng mệnh lệnh cấp trên một cách tuyệt đối, cho nên người thi hành mệnh lệnh không có lỗi đối với việc gây hại cho xã hội.

Quan hệ mệnh lệnh hành chính dân sự khác với các quan hệ mệnh lệnh trong lực lượng vũ trang, bởi người chấp hành mệnh lệnh trong điều kiện hoàn toàn có điều kiện cân nhắc suy xét về nội dung mệnh lệnh, về tính trái pháp luật của mệnh lệnh và điều kiện thi hành mệnh lệnh… Con người trong những trường hợp này vẫn có tính chủ động nhất định mà không chỉ đơn thuần chấp hành một cách máy móc thụ động. Việc gây hại cho xã hội vẫn có yếu tố lý chí và ý chí – yếu tố lỗi của người thi hành mệnh lệnh. Vì vậy, việc gây thiệt hại không được coi là các trường hợp loại trừ TNHS. Trong những trường hợp cụ thể nhất định có thể chỉ xem xét việc chấp hành mệnh lệnh là tình tiết giảm nhẹ TNHS.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 26 BLHS năm 2015 do tính chất đặc biệt của một số loại tội phạm mà người thi hành mệnh lệnh phải chịu TNHS trong mọi trường hợp. Đó là  Điều 421. Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược, tại khoản 2 quy định: Phạm tội do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm. Hoặc Điều 422 quy định tội chống loài người; hoặc Điều 423. Tội phạm chiến tranh tại khoản 2 các Điều luật cũng nêu tương tự:  Phạm tội do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

Trường hợp cần hỗ trợ tư vấn, soạn đơn đề nghị xử lý, Quý khách hàng vui lòng liên hệ Công ty luật Dương Gia theo số hotline 19006586 để được hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon