Phân biệt tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc?

phan-biet-toi-danh-bac-va-toi-to-chuc-danh-bac-hoac-ga-bac

Hiện nay, tệ nạn xã hội mà đặc biệt là tội phạm về cờ bạc ngày càng có xu hướng gia tăng, ngày một tinh vi, xảo quyệt, mang tính tổ chức cao. Cờ bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hưởng đến trật tự công cộng mà còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác như giết người cướp của, trộm cắp, cướp giật,… Tội phạm về cờ bạc gồm tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân biệt về các loại tội phạm cờ bạc cụ thể này.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015).

1. Tội đánh bạc

cấu thành tội phạm của tội đánh bạc gồm:

* Mặt khách thể của tội phạm:

Tội đánh bạc là loại tội phạm xâm phạm tới trật tự công cộng thông qua các hành vi của tội đánh bạc đều trực tiếp hay gián tiếp xâm phạm tới trật tự công cộng đồng thời dễ làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, cướp giật tài sản,…

* Mặt khách quan của tội phạm:

– Hành vi khách quan:

Hành vi khách quan của tội đánh bạc là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá nhất định. Hành vi được thua bằng tiền hay hiện vật là hành vi có tính chất sát phạt lẫn nhau để kiếm tiền một cách bất hợp pháp. Điều luật quy định những điều kiện mà chỉ khi thỏa mãn ít nhất một trong các điều kiện đó hành vi đánh bạc mới có thể được coi là hành vi phạm tội. Theo quy định trên, người thực hiện hành vi đánh bạc được coi là tội phạm đánh bạc khi hành vi thõa mãn các dấu hiệu sau:

+ Tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

+ Dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này;

+ Dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

Phương thức thủ đoạn của tội đánh bạc:

Theo quy định của điều luật quy thì tội đánh bạc được hiểu là đánh bạc “dưới bất kỳ hình thức nào”. Trên thực tế phương thức thủ đoạn của tội đánh bạc rất đa dạng được biểu hiện dưới các dạng cụ thể: Đánh bài, đánh ba cây, xóc đĩa, tá lả, ghi số lô, số đề, đua ngựa, chắn, cá độ,…

Phương tiện phạm tội đánh bạc:

Dấu hiệu phương tiện thanh toán là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội đánh bạc tức là người thực hiện hành vi phạm tội phải được thua bằng tiền hoặc hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Hậu quả của tội phạm:

Hậu quả của hành vi phạm tội đánh bạc không phải là dấu hiệu bắt buộc được quy định trong cấu thành tội phạm của tội đánh bạc. Tội đánh bạc được xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức, điều đó có ý nghĩa dấu hiệu hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành.

* Mặt chủ quan của tội phạm:

Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm. Các yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội đánh bạc bao gồm lỗi, động cơ, mục đích phạm tội là những dấu hiệu quan trọng trong cấu thành của tội phạm này.

Lỗi của người phạm tội đánh bạc là lỗi cố ý trực tiếp. Người đánh bạc nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, nhận thức được tính chất xâm phạm tới trật tự công cộng nhưng vẫn mong muốn và thực hiện hành vi phạm tội.

– Mục đích, động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc.

* Mặt chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội phạm là người thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật hình sự phải thỏa mãn ít nhất hai điều kiện: Có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (16 tuổi trở lên). 

2. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

Cấu thành tội phạm của tội tổ chức đánh bạc gồm:

* Mặt khách thể của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:

Khách thể trực tiếp của các tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là trật tự công cộng, trật tự xã hội trong hoạt động chung của cộng đồng.

* Mặt khách quan của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:

Tội phạm này được quy định thành hai hành vi khách quan khác nhau nhưng lại có liên quan với nhau, đó là hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc.

+ Tổ chức đánh bạc là hành vi phân công, điều hành, cưỡng bức, đe dọa hoặc hành vi khác tạo điều kiện cho người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.

Hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi chỉ huy, điều hành… việc đánh bạc, người đánh bạc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nhưng cũng có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Người tổ chức việc đánh bạc nếu đủ yếu tố cấu thành tội tổ chức đánh bạc và tội đánh bạc hoặc gá bạc thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc phạm nhiều tội.

+ Gá bạc là dùng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng trọ, tàu, xe, thuyền…) đang do mình quản sử dụng để cho người khác đánh bạc để thu tiền. Hành vi gá bạc còn gọi là chứa gá bạc hoặc chứa bạc. Như vậy, dấu hiệu bắt buộc để xác định có hành vi gá bạc nêu trên thỏa mãn các dấu hiệu khác như số người đánh bạc từ 10 người trở lên.

Người có hành vi gá bạc có thể đồng thời là người tổ chức đánh bạc, nhưng có thể người tổ chức đánh bạc và người gá bạc khác nhau. Nếu người gá bạc mà còn cùng tham gia đánh bạc thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc.

Theo quy định của BLHS năm 2015 thì hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây được coi là tội phạm:

+ Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

+ Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

+ Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

+ Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi về tội đánh bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc mà còn vi phạm. Đã bị kết án về một trong các tội tội đánh bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

* Mặt chủ quan của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:

Chủ thể của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc luôn có lỗi cố ý trực tiếp. Người tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc đều nhận thức được hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc của mình là hành vi nhà nước ngăn cấm, trái pháp luật, nhưng người phạm tội vẫn cố tình thực hiện hành vi.

Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội của tổ chức đánh bạc và tội gá bạc không là dấu hiệu bắt buộc, không được mô tả trong cấu thành tội phạm.

* Mặt chủ thể của tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:

Chủ thể của các tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.

3. Phân biệt tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

Tội đánh bạc Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc
Mặt khách thể Khách thể trực tiếp của các tội phạm về cờ bạc là trật tự công cộng, trật tự xã hội trong hoạt động chung của cộng đồng.
Hành vi khách quan – Hành vi khách quan của tội đánh bạc là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá nhất định. Hành vi được thua bằng tiền hay hiện vật là hành vi có tính chất sát phạt lẫn nhau để kiếm tiền một cách bất hợp pháp. Điều luật quy định những điều kiện mà chỉ khi thỏa mãn ít nhất một trong các điều kiện đó hành vi đánh bạc mới có thể được coi là hành vi phạm tội. Theo quy định trên, người thực hiện hành vi đánh bạc được coi là tội phạm đánh bạc khi hành vi thõa mãn các dấu hiệu sau:

+ Tiền hay hiện vật dùng đánh bạc có trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

+ Dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này;

+ Dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

– Như vậy, tội đánh bạc chỉ quy định đáp ứng được dấu hiệu định lượng tiền tối thiểu quy định tại cấu thành cơ bản của điều luật là từ 5 triệu đồng trở lên hoặc dưới 5 triệu đồng nhưng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

– Tội phạm này được quy định thành hai hành vi khách quan khác nhau nhưng lại có liên quan với nhau, đó là hành vi tổ chức đánh bạc và hành vi gá bạc.

+ Tổ chức đánh bạc là hành vi phân công, điều hành, cưỡng bức, đe dọa hoặc hành vi khác tạo điều kiện cho người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào.

Hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi chỉ huy, điều hành… việc đánh bạc, người đánh bạc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc nhưng cũng có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Người tổ chức việc đánh bạc nếu đủ yếu tố cấu thành tội tổ chức đánh bạc và tội đánh bạc hoặc gá bạc thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc phạm nhiều tội.

+ Gá bạc là dùng địa điểm (nhà ở, cửa hàng, khách sạn, phòng trọ, tàu, xe, thuyền…) đang do mình quản sử dụng để cho người khác đánh bạc để thu tiền. Hành vi gá bạc còn gọi là chứa gá bạc hoặc chứa bạc. Như vậy, dấu hiệu bắt buộc để xác định có hành vi gá bạc nêu trên thỏa mãn các dấu hiệu khác như số người đánh bạc từ 10 người trở lên.

Người có hành vi gá bạc có thể đồng thời là người tổ chức đánh bạc, nhưng có thể người tổ chức đánh bạc và người gá bạc khác nhau. Nếu người gá bạc mà còn cùng tham gia đánh bạc thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả tội đánh bạc nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội đánh bạc.

Theo quy định của BLHS năm 2015 thì hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thuộc một trong các trường hợp sau đây được coi là tội phạm:

+ Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

+ Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

+ Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

+ Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

+ Đã bị xử phạt hành chính về hành vi về tội đánh bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc mà còn vi phạm. Đã bị kết án về một trong các tội tội đánh bạc, gá bạc, tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

– Như vậy, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc phải đáp ứng được dấu hiệu định lượng gây thiệt hại tối thiểu cho xã hội của hành vi trong cùng một lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên.

Mặt chủ quan Chủ thể của các tội phạm cờ bạc luôn có lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm đều nhận thức được hành vi tổ chức đánh bạc và gá bạc của mình là hành vi nhà nước ngăn cấm, trái pháp luật, nhưng người phạm tội vẫn cố tình thực hiện hành vi.
Mặt chủ thể Chủ thể của các tội phạm cờ bạc là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.
Hình phạt – Hình phạt chính:

+ Khoản 1 điều 321 BLHS: gồm hình phạt tiền và hình phạt tù có thời hạn. Mức cao nhất của khung hình phạt là 03 năm. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng.

+ Khoản 2 điều 321 BLHS: Mức cao nhất của khung hình phạt là 07 năm. Đây là tội phạm nghiêm trọng.

 

 

 

– Hình phạt bổ sung: hình phạt tiền.

– Hình phạt chính:

+ Khoản 1 điều 322 BLHS: gồm hình phạt tiền và hình phạt tù có thời hạn. Mức cao nhất của khung hình phạt là 05 năm. Đây là tội phạm  nghiêm trọng.

+ Khoản 2 điều 322 BLHS: Mức cao nhất của khung hình phạt là 10 năm tù. Đây là tội phạm rất nghiêm trọng.

Do đó, tội tổ chức đánh bạn hoặc gá bạc là tội nặng hơn so với tội đánh bạc.

– Hình phạt bổ sung: gồm hình phạt tiền và hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Như vậy, bài viết trên đây đã phân biệt về tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon