Xuất phát từ truyền thống nhân đạo, tương thân tương ái của dân tộc, Bộ luật dân sự nước ta đã ghi nhận chế định về cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đối tượng được cấp dưỡng, phát huy truyền thống và đạo lí tốt đẹp của gia đình qua ngàn đời. Quan hệ cấp dưỡng có thể là quan hệ vĩnh viễn, kéo dài suốt một đời người nhưng cũng có thể là quan hệ có thời hạn nhất định. Việc quy định các thời điểm chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng chính là dấu mốc xác định thời hạn cấp dưỡng. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích về các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Căn cứ pháp lý:
– Luật hôn nhân và gia đình năm 2015.
1. Cấp dưỡng là gì?
1.1. Định nghĩa
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định.
1.2. Đặc điểm của quan hệ cấp dưỡng
– Thứ nhất, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh giữa các chủ thể trên cơ sở quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng.
Theo đó, tại khoản 1 Điều 107 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định rõ: Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị, em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột; giữa vợ và chồng theo quy định của Luật này. Các chủ thể này có thể là thành viên trong gia đình hoặc không phải là thành viên trong gia đình nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
– Thứ hai, quan hệ cấp dưỡng không chỉ là quan hệ nhân thân mà còn mang tính tài sản, song không mang tính đền bù ngang giá.
Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu cho người được cấp dưỡng. Khi thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, luôn có sự chuyển giao một phần lợi ích nhất định từ phía người cấp dưỡng sang người được cấp dưỡng. Trường hợp bên có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, không thể thực hiện việc cấp dưỡng thì tuy nghĩa vụ cấp dưỡng chưa chấm dứt, nhưng ý nghĩa thực tế của nghĩa vụ này cũng hầu như không có, bởi vì lợi ích tài sản của nghĩa vụ không còn tồn tại.
Quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù ngang giá do yếu tố tình cảm giữa các chủ thể. Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không tính toán đến giá trị tài sản đã cấp dưỡng, không đòi hỏi người được cấp dưỡng phải hoàn lại một số tiền tương ứng. Do nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ được đặt ra khi có những điều kiện nhất định. Vì vậy, quan hệ cấp dưỡng không mang tính đền bù tương đương.
– Thứ ba, nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.
Bên có nghĩa vụ cấp dưỡng không thể cam kết sẽ dùng nghĩa vụ khác để thay thế, bù trừ nghĩa vụ cấp dưỡng như là bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm. Nghĩa vụ cấp dưỡng này cũng không thể sử dụng làm cơ sở đảm bảo cho những nghĩa vụ khác; đồng thời, chủ thể có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không thể chuyển giao nghĩa vụ cấp dưỡng cho bất cứ ai. Đây cũng là một đặc trưng xuất phát từ tính chất của quyền nhân thân “…là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”.
– Thứ tư, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh trong điều kiện nhất định.
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ phái sinh, tức là khi quan hệ nuôi dưỡng không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ thì lúc đó quan hệ cấp dưỡng mới xuất hiện. Trong thực tế, không chỉ do người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng không thực hiện nghĩa vụ đó thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới phát sinh. Bất kỳ thành viên nào trong gia đình cũng có thể rơi vào hoàn cảnh không đầy đủ hoặc thiếu hụt về phương diện nào đó; song chỉ khi người đó có sự thiếu hụt về vật chất, làm ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới đặt ra. Điều này biểu hiện ở chỗ, người đó gặp khó khăn, túng thiếu hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Trong quan hệ cấp dưỡng này, chủ thể không chỉ là thành viên gia đình trong mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà còn phải thoả mãn những điều kiện nhất định về độ tuổi, tình trạng nhân thân, tài sản…
– Thứ năm, việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thông qua lương tâm, đạo đức, dư luận xã hội và cả các biện pháp cưỡng chế thi hành.
Quan hệ huyết thống là gốc rễ hình thành mối quan hệ gắn bó, khăng khít giữa các thành viên trong gia đình. Khi các thành viên trong gia đình không thể trực tiếp chăm sóc nhau thì họ thực hiện nghĩa vụ thông qua việc cấp dưỡng. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trước hết xuất phát từ ý thức, trách nhiệm của bên thực hiện cấp dưỡng. Pháp luật cũng đã đưa ra các chế tài nhằm xử lý những trường hợp trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, không chỉ trong pháp luật dân sự, Hôn nhân và Gia đình mà còn trong pháp luật hình sự…
2. Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng như sau:
Điều 118. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
“Nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình;
2. Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
3. Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
4. Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
5. Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn;
6. Trường hợp khác theo quy định của luật.”
– Thứ nhất, người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.
+ Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động.
Về nguyên tắc, nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ đặt ra khi người được cấp dưỡng là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Vì vậy, khi người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động thì họ không được cấp dưỡng nữa. Song nếu người đã thành niên nhưng lại rơi vào trường hợp không có khả năng lao động do nhiều lý do khách quan nên họ không có khả năng lao động: Mất năng lực hành vi dân sự, bị tàn tật, bị bệnh lâu dài dẫn đến không có khả năng lao động thì vẫn được nhận cấp dưỡng.
+ Người được cấp dưỡng có tài sản để tự nuôi mình.
Theo quy định, những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng mà lại không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, có khó khăn, túng thiếu, không sống cùng nhau thì có quyền yêu cầu cấp dưỡng đối với những người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Khi có tài sản để tự nuôi mình, người được cấp dưỡng không còn lâm vào tình trạng khó khăn, túng thiếu, cuộc sống của người đó đã được bảo đảm nên việc cấp dưỡng không cần thiết nữa. Tuy nhiên, có một trường hợp ngoại lệ khi nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn tiếp tục nếu người được cấp dưỡng là con chưa thành niên. Lúc này, tài sản đó được coi là tài sản riêng, con chưa thành niên có quyền được quản lý và định đoạt. Về phần cha, mẹ vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng tới khi con thành niên.
– Thứ hai, người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi.
Trong quá trình nghĩa vụ cấp dưỡng đang được thực hiện mà người được cấp dưỡng được người nhận làm con nuôi thì nghĩa vụ đương nhiên chấm dứt. Do quan hệ nuôi dưỡng là một quan hệ gia đình, trong đó các chủ thể gồm cha mẹ nuôi và con nuôi có những quyền và nghĩa vụ tương tự nhau như quan hệ giữa cha mẹ và con trên cơ sở huyết thống. Pháp luật hôn nhân và gia đình đã ghi nhận vấn đề này tại Điều 78 Luật HN&GĐ năm 2014:
Điều 78. Quyền và nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi
“1. Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con được quy định trong Luật này kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi được xác lập theo quy định của Luật nuôi con nuôi”.
Khi đó, cha mẹ nuôi có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái thành người tốt và đảm bảo cuộc sống của con được tốt đẹp hơn. Từ đó, nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người cấp dưỡng đã được nhận làm con nuôi.
– Thứ ba, người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ phát sinh khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không trực tiếp nuôi dưỡng người mà mình có nghĩa vụ nuôi dưỡng khi không sống chung. Khi người có nghĩa vụ nuôi dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người kia thì tức là nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt, lúc này quan hệ cấp dưỡng đã chuyển thành quan hệ nuôi dưỡng. Người cấp dưỡng đã tự mình chăm sóc nuôi dưỡng người được cấp dưỡng thì đương nhiên quan hệ cấp dưỡng không còn nữa.
– Thứ tư, người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết.
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân giữa các thành viên trong gia đình, dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng được thực hiện tương ứng giữa các chủ thể đối với nhau nên không thể chuyển giao cho người khác. Do đó, khi một trong hai người là người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết thì quan hệ cấp dưỡng đương nhiên chấm dứt.
Tuy nhiên, trong trường hợp nhiều người có nghĩa vụ cấp dưỡng cho một người mà trong những người cấp dưỡng chết thì nghĩa vụ cấp dưỡng của những người cấp dưỡng còn sống vẫn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp một người cấp dưỡng cho nhiều người mà một trong những người được cấp dưỡng chết thì người cấp dưỡng vẫn phải cấp dưỡng cho những người được cấp dưỡng còn sống.
– Thứ năm, bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn.
Quan hệ này chỉ phát sinh khi người được cấp dưỡng túng thiếu do cuộc ly hôn gây ra. Do đó, khi người được cấp dưỡng đi kết hôn với người khác mà có khó khăn, túng thiếu thì cũng không thể nói là ảnh hưởng từ việc ly hôn nên trong trường hợp bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn thì sẽ chấm dứt quan hệ cấp dưỡng.
– Thứ sáu, quan hệ cấp dưỡng chấm dứt trong các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Trong từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của các bên, trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể cho phép chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Chẳng hạn như, nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể chấm dứt khi người phải cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế và không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Xác định tình trạng khó khăn về sức khỏe của người phải cấp dưỡng dựa vào tình trạng sức khỏe, khả năng lao động và mức thu nhập của người đó.
Nếu một người trước đây có sức khỏe, có khả năng lao động và có thu nhập nên được xác định là có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng tình trạng sức khỏe của họ giảm sút, nếu họ tiếp tục phải cấp dưỡng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của chính họ. Đối với những trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng của họ bị chấm dứt hoặc có thể tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ví dụ: Người có nghĩa vụ cấp dưỡng đau ốm, tai nạn hoặc mất việc không còn khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.