Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học là thành quả của các nỗ lực sáng tạo của con người. Các quyền đối với tác phẩm của người sáng tạo ra nó được pháp luật bảo hộ. Theo quy định tại Điều 13 của Luật SHTT thì tổ chức, cá nhân có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm: Người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm; Tác giả và các đồng tác giả; Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng tác giả; Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả chuyển giao quyền tác giả. Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về các chủ thể của quyền tác giả.
1. Khái niệm tác giả
Về mặt pháp lý, tác giả được hiểu là người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để trực tiếp sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Tác giả sẽ đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả khi sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm. Trường hợp này, tác giả sẽ có các quyền nhân thân và quyền tài sản quy định của Luật SHTT và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo pháp luật Việt Nam, tác giả chỉ có thể là cá nhân, là những con người cụ thể vì chỉ có con người mới có hoạt động sáng tạo ra các tài sản trí tuệ (tác phẩm).
Tác giả là những người bằng lao động trí óc của mình, trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học định hình dưới dạng vật chất nhất định. Ngoài ra, những người làm các công việc dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn cũng là tác giả của tác phẩm phái sinh.
Nhà nước chỉ bảo hộ những ý tưởng về văn học, nghệ thuật và khoa học đã được hình thành bằng tác phẩm và định hình ở bất kỳ dạng vật chất nào.
Đồng tác giả: Theo Khoản 1 Điều 38 Luật SHTT 2005, trường hợp một tác phẩm do nhiều người “sử dụng thời gian cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để cùng sáng tạo ra một tác phẩm” là đồng tác giả và có các quyền nhân thân và tài sản.
2. Tác giả có thể là pháp nhân hay tổ chức không?
Trong hệ thống pháp luật một số nước về quyền tác giả, khái niệm tác giả không chỉ là thể nhân mà còn có thể là pháp nhân hoặc tổ chức, nếu việc xác định tác giả là thể nhân không cần thiết hoặc sẽ gây khó khăn cho việc quản lý.
Vì vậy, khái niệm tác giả được hiểu rộng hơn không chỉ là cá nhân mà còn có thể là tổ chức, pháp nhân. Hiểu khái niệm này theo nghĩa rộng như vậy sẽ bao hàm việc ghi nhận pháp nhân đầu tư xây dựng chương trình máy tính là “tác giả” của chương trình máy tính đó và mới có thể xác định được tác giả của các chương trình của nước ngoài như của Microsoft, Norton,… đang được lưu hành tại Việt Nam.
3. Khái niệm chủ sở hữu quyền tác giả
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản thuộc quyền tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả có thể thuộc các trường hợp sau:
- Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả
Tác giả trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm có thể do nhiệm vụ hoặc theo sự giao kết hợp đồng với các chủ thể khác, theo quy định tại Điều 39 của Luật SHTT thì tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền quy định tại Điều 20 và Khoản 3 Điều 19 của Luật SHTT.
Cá nhân thỏa thuận cho người khác tạo ra tác phẩm để đáp ứng nhu cầu vật chất hay tinh thần của mình. Trong cả hai trường hợp tổ chức giao nhiệm vụ hoặc cá nhân xác lập hợp đồng để tạo ra tài sản trí tuệ thì trong hợp đồng hai bên cần thỏa thuận rõ phạm vi quyền của bên giao nhiệm vụ đối với tác phẩm, ví dụ như chỉ nắm quyền sử dụng đối với tác phẩm…
- Chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế
Theo quy định tại Điều 40 của Luật SHTT, tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả theo quy định của pháp luật về thừa kế theo quy định của pháp luật thừa kế. Người thừa kế là chủ sở hữu tác phẩm có các quyền quy định tại Khoản 3 Điều 19 và Điều 20 của Luật SHTT.
- Chủ sở hữu quyền tác giả là người được chuyển giao quyền
Quyền tác giả có thể được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân thông qua hình thức chuyển nhượng và chuyển quyền sử dụng. Chuyển nhượng quyền tác giả được hiểu là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu các quyền của mình theo quy định của pháp luật. Chuyển quyền sử dụng quyền tác giả được hiểu là việc chủ sở hữu quyền tác giả cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời hạn một, một số hoặc toàn bộ các quyền của mình theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu quyền tác giả là người được hưởng quyền có một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản và nhân thân trên cơ sở thỏa thuận trong hợp đồng (Điều 41 của Luật SHTT).
- Chủ sở hữu quyền tác giả là Nhà nước
Theo quy định tại Điều 42 của Luật SHTT, Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm sau:
Thứ nhất, đối với tác phẩm khuyết danh thuộc sở hữu nhà nước. Theo Khoản 2, Khoản 3 Điều 28, Nghị định 100/2006/NĐ-CP thì trường hợp tác phẩm khuyết danh do các tổ chức, cá nhân đang quản lý thì tổ chức, cá nhân đó được hưởng quyền sở hữu. Khi danh tính chủ sở hữu thực sự của tác phẩm được xác định thì quyền sở hữu thuộc về chủ sở hữu đó, kể từ ngày danh tính chủ sở hữu được xác định.
Thứ hai, tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản.
Thứ ba, tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước. Khi cá nhân, tổ chức sử dụng tác phẩm thuộc sở hữu nhà nước trong trường hợp này có nghĩa vụ xin phép sử dụng; thanh toán tiền nhuận bút, thù lao, các quyền, lợi ích vật chất khác; nộp một bản sao tác phẩm trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày phổ biến, lưu hành. Cá nhân, tổ chức thực hiện các nghĩa vụ tại Cục Bản quyền tác giả Văn học – Nghệ thuật.
- Tác phẩm thuộc về công chúng
Do đặc thù đối với các quyền tác giả là tác phẩm, là sản phẩm mang tính sáng tạo của con người nên có giá trị chung. Sau một thời hạn bảo hộ theo quy định của pháp luật, tác phẩm sẽ thuộc về công chúng. Điều 43 của Luật SHTT quy định:
“Tác phẩm đã kết thúc thời hạn bảo hộ theo quy định tại Điều 27 của Luật SHTT thì thuộc về công chúng;
Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này nhưng phải tôn trọng các quyền nhân thân của tác giả quy định tại Điều 19 của Luật SHTT”.
4. Nội dung quyền tác giả
Trong Luật SHTT, nội dung, giới hạn quyền và thời hạn quyền bảo hộ tác giả được xác định như sau:
Quyền nhân thân không thể chuyển giao (quy định tại Khoản 1, 2 và 4 Điều 19 Luật SHTT)
- Đặt tên cho tác phẩm
- Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm
- Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm, dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền nhân thân có thể chuyển giao (quy định tại Khoản 3 Điều 19 Luật SHTT)
Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý.
Quyền tài sản bao gồm các quyền sau:
- Làm tác phẩm phái sinh
- Biểu diễn tác phẩm trước công chúng
- Sao chép tác phẩm
- Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm
- Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác
- Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế
Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả, là người được chuyển giao quyền có các quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
5. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Khác với quyền sở hữu tài sản khác, quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng chỉ được bảo hộ trong một khoảng thời gian nhất định do pháp luật quy định. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được hiểu là thời hạn các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm được pháp luật bảo hộ.
Các quyền tác giả đối với các tác phẩm có thời hạn bảo hộ khác nhau, có một số quyền tác giả được bảo hộ vô thời hạn, một số quyền chỉ được bảo hộ trong một thời hạn xác định.
Theo Công ước Berne, quyền tác giả được bảo hộ ít nhất trong suốt đời người của tác giả cộng với 50 năm sau khi tác giả chết, đối với các tác phẩm khuyết danh thì thời hạn bảo hộ là 50 năm kể từ khi tác phẩm được phổ cập đến quần chúng một cách hợp pháp (Điều 7).
- Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn bảo hộ được tính theo quy định tại điểm b khoản này;
- Tác phẩm không thuộc loại hình quy định tại điểm a khoản này có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
- Thời hạn bảo hộ quy định tại điểm a và điểm b khoản này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Trên đây là những nội dung liên quan đến Chủ thể quyền tác giả. Bạn đọc có thể tham khảo các bài viết liên quan khác bên dưới.