Mỗi điều ước sẽ có hiệu lực thi hành khi thoả mãn điều kiện chủ quan như phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, phù hợp với quy định về thẩm quyền theo quy định của pháp luật quốc gia và điều kiện khách quan là phù hợp với các quy phạm Jus cogens của luật quốc tế. Vậy thì hiệu lực của điều ước quốc tế được xác lập từ khi nào? Các nguyên tắc thực hiện ra sao? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu vấn đề trên.
Căn cứ pháp lý
– Luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế 2005.
1. Hiệu lực của điều ước quốc tế
1.1. Điều kiện có hiệu lực của điều ước quốc tế
Như đã tìm hiểu tại phần II của chương, chúng ta biết rằng điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế. Nhưng không phải mọi thỏa thuận quốc tế đều là điều ước quốc tế. Để trở thành điều ước quốc tế, thỏa thuận đó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định:
+ Điều ước quốc tế phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng + Điều ước quốc tế được ký kết phải phù hợp với quy định của pháp luật các bên về thẩm quyền và thủ tục ký kết.
+ Nội dung của điều ước quốc tế phải phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại vì các nguyên tắc cơ bản là thước đo, là gốc của luật pháp quốc tế, để trên cơ sở đó hình thành lên các quy phạm pháp luật quốc tế.
1.2. Hiệu lực về thời gian của điều ước quốc tế
Trong phần này chúng ta cần giải quyết 2 vấn đề, đó là:
+ Thời điểm có hiệu lực của điều ước quốc tế
+ Thời hạn có hiệu lực của điều ước quốc tế.
1.2.1. Thời điểm có hiệu lực của điều ước quốc tế
Về nguyên tắc, luôn phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên trong điều ước. Tuy nhiên, thực tiễn chúng ta có thể khái quát thành 2 trường hợp sau:
- Đối với các điều ước song phương: thời điểm có hiệu lức là thời điểm các bên tiến hành ký đầy đủ hoặc tiến hành trao đổi thư phê chuẩn hoặc phê duyệt (trong trường hợp điều ước có quy định thủ tục phê chuẩn hoặc phê duyệt). VD: Sau khi Việt nam và Hoa Kỳ tiến hành ký đầy đủ vào Hiệp định thương mại, 2 bên phải tiến hành phê chuẩn do hiệp định này quy định phải được phê chuẩn. Sau khi cơ quan có thẩm quyền của 2 quốc gia đã tiến hành thủ tục phê chuẩn, người đứng đầu 2 quốc gia sẽ làm thư phê chuẩn để tiến hành trao đổi.
- Đối với điều ước quốc tế đa phương: Thời điểm có hiệu lực của loại điều ước này rất đa dạng và phong phú. Nhìn chung, điều ước quốc tế đa phương sẽ có hiệu lực khi các điều kiện về hiệu lực được ghi nhận trong điều ước quốc tế cụ thể được thỏa mãn (thường là quy định về quốc gia phê chuẩn và thời gian quốc gia phê chuẩn mới có hiệu lực). Trong trường hợp điều ước quốc tế không có quy định liên quan đến vấn đề này thì điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực khi các bên tiến hành ký đầy đủ.
VD: Công ước về quyền trẻ em quy định: công ước này có hiệu lực khi có 20 quốc gia phê chuẩn và sẽ có hiệu lực sau đó 30 ngày. Hay Công ước Luật Biển năm 1982 quy định Công ước sẽ có hiệu lực sau khi quốc gia thứ 60 phê chuẩn 1 năm. Ví dụ quốc gia thứ 60 phê chuẩn ngày 2/9/1993 thì ngày 2/9/1994 Công ước có hiệu lực.
1.2.2. Thời hạn có hiệu lực của điều ước quốc tế
Gồm 2 trường hợp:
– Nhóm điều ước quốc tế có thời hạn: bao gồm điều ước quốc tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nhóm điều ước quốc tế chủ yếu trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế…
– Nhóm các điều ước quốc tế vô thời hạn: các điều ước này chỉ quy định thời điểm có hiệu lức của điều ước mà không quy định thời điểm chấm dứt hiệu lực. Thông thường các điều ước quốc tế loại này chủ yếu xuất hiện trong các lĩnh vực về nhân quyền, chiến tranh, biên giới và các vấn đề lớn mang tính toàn cầu.
+ Hiệu lực của điều ước quốc tế về không gian
- Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của các quốc gia thành viên, không có hiệu lực vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ của quốc gia này. Tuy nhiên, điều ước có hiệu lực trên toàn bộ hay một phần lãnh thổ phụ thuộc vào nội dung của điều ước.
+ Hiệu lực của điều ước quốc tế đối với bên thứ 3
Về nguyên tắc, điều ước quốc tế chỉ có ý nghĩa ràng buộc với các bên trong điều ước. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ từ nguyên tắc này. Có một số điều ước quốc tế tạo ra quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế cho bên thứ 3 (các quôc sgia không phải là thành viên của điều ước), đó là:
- Trường hợp điều ước quốc tế xác định quyền và nghĩa vụ cho bên thứ 3, nếu bên thứ 3 đồng ý. VD: Điều 87 Công ước Luật Biển quy định: “Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển…”.
- Điều ước quốc tế tạo ra hoàn cảnh khách quan, mặc dù không phải thành viên của điều ước nhưng quốc gia này cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ một cách triệt để những nghĩa vụ này. VD: Hiệp định về Nam cực được ký kết năm 1959 giữa Mỹ, Liên xô và một số quốc gia khác. Từ Hiệp định này, Nam cực trở thành một vùng lãnh thổ quốc tế, và không quốc gia nào được quyền xác lập chủ quyền đối với Nam cực, nhưng bất kỳ quốc gia nào cũng được quyền khai thác Nam cực cho mục đích nghiên cứu hay thương mại.
- Điều ước quốc tế được các quốc gia không phải thành viên viện dẫn với tư cách là tập quán quốc tế.
- Điều ước quốc tế có điều khoản tối huệ quốc
2. Ảnh hưởng của các yếu tố khách quan, chủ quan đến hiệu lực của điều ước quốc tế
Về nguyên tắc, các điều ước quốc tế khi ký kết thỏa mãn những điều kiện được đặt ra sẽ có hiệu lực. Tuy nhiên, hiệu lực thi hành của một điều ước quốc tế có thể chịu sự tác động khác nhau của các yếu tố khách quan, chủ quan dẫn đến hệ quả chấm dứt vĩnh viễn hoặc tạm thời đình chỉ hiệu lực của điều ước quốc tế trong các trường hợp sau:
2.1. Về chủ quan
- Do các bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế – Do điều ước quốc tế hết thời hạn
- Do một bên đơn phương tuyên bố hủy bỏ khi bên ký kết khác đã vi phạm nghiêm trọng điều ước
- Do một bên đơn phương tuyên bố hủy bỏ trên cơ sở cho phép của điều ước đó
- Do các bên thỏa thuận ký kết một điều ước quốc tế mới về cùng một vấn đề
- Do có hành vi bảo lưu điều ước
2.2. Về khách quan
- Do có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Rebus-sic-stantibus), sự thay đổi này vào thời điểm ký kết các bên không dự tính được. Tuy nhiên, dù có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh các bên vẫn phải thực hiện điều ước quốc tế, đó là: sự thay đổi này do một bên chủ định tạo ra hoặc điều ước quốc tế đó liên quan đến vấn đề biên giới lãnh thổ.
- Do có sự xung đột vũ trang giữa các quốc gia (không áp dụng đối với các điều ước về biên giới, hay Công ước Giơnevơ về bảo hộ nạn nhân chiến tranh);
- Do mất đối tượng của điều ước quốc tế
- Xuất hiện quy phạm Jus cogens mới có nội dung trái với điều ước, trong trương hợp này điều ước quốc tế sẽ đương nhiên chấm dứt hiệu lực.
3. Thực hiện điều ước quốc tế
3.1. Nguyên tắc thực hiện điều ước quốc tế
Thực hiện điều ước quốc tế là việc các bên thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ pháp lý đã được ghi nhận trong điều ước. Điều ước quốc tế phải được các thành viên kết ước thực hiện dựa trên nguyên tắc tận tâm, thiện chí. Các thành viên của điều ước không thể viện dẫn sự khác biệt giữa điều ước quốc tế đã ký và luật quốc gia của nước đó để không thực hiện điều ước quốc tế.
3.2. Giải thích điều ước quốc tế
- Là quá trình làm sáng tỏ nội dung của các quy phạm điều ước. Việc áp dụng các điều khoản của một điều ước đòi hỏi các bên phải hiểu đúng, chính xác các quy định của điều ước, tránh việc hiểu sai, hiểu không thống nhất giữa các thành viên. Yêu cầu này đặt ra đòi hỏi phải giải thích điều ước. Và việc giải thích điều ước này được đặc biệt quan tâm khi các bên ký kết có những ý kiến bất đồng về ý nghĩa thực sự của điều ước.
- Chủ thể giải thích điều ước quốc tế: Việc xác định chủ thể giải thích điều ước quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt. Tính chất và ý nghĩa pháp lý của việc giải thích phụ thuộc vào chủ thể của việc giải thích. Giải thích điều ước quốc tế có thể là giải thích chính thức (là giải thích của các quốc gia tham gia ký kết điều ước quốc tế có thể thông qua Bộ ngoại giao..hoặc giải thích của các tổ chức quốc tế); hoặc giải thích không chính thức (là giải thích của các học giả, các chuyên gia hay các cơ quan nghiên cứu pháp luật…) – Yêu cầu của việc giải thích điều ước là:
- Điều ước phải được giải thích thiện chí, phù hợp với ý nghĩa thông thường của các thuật ngữ được sử dụng trong điều ước và trong mối quan hệ với đối tượng và mục đích của điều ước.
- Việc giải thích điều ước phải căn cứ vào nội dung văn bản điều ước, các thỏa thuận có liên quan đến điều ước được các bên chấp nhận trong khi ký kết điều ước, các thỏa thuận sau này của các bên về giải thích và thực hiện điều ước, thực tiễn thực hiện điều ước liên quan đến việc giải thích điều ước và các quy định thích hợp của pháp luật quốc tế.
4. Đăng ký và công bố điều ước quốc tế
- Về nguyên tắc, điều ước đăng ký hay không điều ước đều có giá trị pháp lý như nhau nếu chúng được ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.
- Theo điều 109 hiến chương LHQ thì: “Mọi Hiệp ước và công ước quốc tế do bất cứ thành viên nào của LHQ ký kết, sau khi hiến chương này có hiệu lực, phải được đăng ký tại Ban thư ký và do ban này công bố càng sớm càng tôt”. Cũng theo Hiến chương LHQ thì “Nếu không đăng ký theo quy định của khoản 1 điều này thì không một bên nào của điều ước được quyền dẫn hiệp ước hay công ước đó trước một cơ quan nào của LHQ”. Như vậy, việc đăng ký và công bố điều ước quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia có cơ sở pháp lý khi giải quyết các tranh chấp có liên quan và cần phải viện dẫn điều ước quốc tế ra trước các cơ quan giải quyết tranh chấp của Liên Hợp Quốc.
- Phù hợp với pháp luật quốc tế, Luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế 2005 của Việt nam cũng ghi nhận rất rõ về vấn đề công bố và đăng ký điều ước quốc tế, theo đó “Điều ước quốc tế có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam được công bố trên công báo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam và Niên giám điều ước quốc tế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa bên Việt nam và bên ký kết nước ngoài hoặc có quyết định khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…”(Điều 69); và “Bộ ngoại giao đăng ký tại Ban thư ký của Liên hợp quốc điều ước quốc tế hai bên và điều ước quốc tế nhiều bên có hiệu lực trong trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam là cơ quan lưu chiểu điều ước quốc tế nhiều bên”. (Điều 70).
- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có hiệu lực, điều ước sẽ được đăng trong công báo của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam.