Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc điểm, yêu cầu đối với thương mại hóa tài sản trí tuệ

dac-diem-yeu-cau-doi-voi-thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue

Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, Nhà nước đã có nhiều chính sách để khuyến khích hoạt động thương mại hoá tài sản trí tuệ, góp phần đưa tài sản trí tuệ vào áp dụng, khai thác trong thực tế nhằm tạo ra các lợi ích, ưu thế cho chủ sở hữu, người sử dụng tài sản trí tuệ đó và cho xã hội. Bài viết phân tích những tác động của bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, làm rõ những đặc điểm và yêu cầu đối với hoạt động thương mại hoá tài sản trí tuệ tại Việt Nam.

1. Khái quát chung bối cảnh hội nhập quốc tế và ảnh hưởng của bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đối với thương mại hóa tài sản trí tuệ

Đại hội XIII của Đảng đã nêu ra nhiều quan điểm và chủ trương mới trong đường lối phát triển đất nước đến giữa thế kỷ XXI. Trái với những luận điệu cố tình phủ nhận những điểm mới trong văn kiện Đại hội, tư duy, quan điểm, chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thật sự là sự kế thừa và phát triển ngang tầm với thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta, cùng với những nhân tố khác, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những giải pháp mang tính quyết định, đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời cải thiện đời sống của nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng – an ninh, củng cố vững chắc độc lập chủ quyền của Tổ quốc. Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư‘ được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên nền tảng tri thức. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ mở ra cơ hội phát triển cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển về tài sản trí tuệ, thương mại hóa tài sản trí tuệ nói riêng. Do đó, việc thúc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển kinh tế – xã hội sẽ tạo điều kiện tăng cường củng cố an ninh – quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.

Trong nền kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ hay quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động cũng như sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Khi tài sản (nhất là tài nguyên) hữu hình đang có xu hướng ngày càng suy giảm và cạn kiệt, giá trị cũng như khả năng cạnh tranh của các loại tài sản này ngày càng thấp đi thì việc khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ được coi là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Theo đó, tài sản trí tuệ là loại tài sản đặc biệt được thừa nhận trong cả thực tiễn lẫn pháp luật của các quốc gia. Thế kỷ XIX, thuật ngữ “sở hữu trí tuệ” hay “tài sản trí tuệ” (Intellectual Property – IP hay Intellectual Assets – IA) mới bắt đầu được sử dụng và cuối thế kỷ XX thuật ngữ này trở nên phổ biến trên thế giới. Xét về bản chất hay cách thức hình thành tài sản, có thể hiểu tài sản trí tuệ là một loại tài sản gồm những sáng tạo vô hình của trí tuệ con người hay nói cách khác, tài sản trí tuệ là các sản phẩm do trí tuệ con người tạo ra thông qua các hoạt động tư duy, sáng tạo trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Kết quả sáng tạo này phải đạt một trình độ nhất định để căn cứ vào đó có thể khai thác tạo ra lợi ích và giá trị cho chủ thể sở hữu1.

Gắn liền đó, trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao, chủ động tham gia và đàm phán các Hiệp định thương mại tự do, đặc biệt trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Việt Nam đã chính thức phê chuẩn và tham gia Hiệp định Đối tác T oàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP) vào ngày 14/01/2019, ký Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) ngày 30/06/2019, nộp Văn kiện gia nhập Thỏa ước La Hay vào ngày 30/09/2019… Cơ hội lớn có thể kể đến là sự giúp đỡ từ Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). Hiện nay WIPO đang chủ trì dự án Môi trường Sở hữu trí tuệ kiến tạo (dự án EIE) dành cho 5 quốc gia khu vực châu Á và Dự án mạng lưới các Trung tâm sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (TISC). Mục tiêu chính của Dự án TISC là trợ giúp và cung cấp cho các chủ thể các thông tin sở hữu công nghiệp, đặc biệt là thông tin sáng chế và các thông tin liên quan, giúp các chủ thể khai thác và phát huy các tiềm năng để tạo lập, bảo hộ và thương mại hóa các tài sản trí tuệ, góp phần đưa tài sản trí tuệ vào áp dụng, sử dụng, quản lý trong thực tế nhằm tạo ra các lợi ích, ưu thế cho chủ sở hữu, người tham gia vào việc áp dụng, sử dụng tài sản trí tuệ đó và cho xã hội.

Trong quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang ngày càng có nhiều chính sách nhằm hỗ trợ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Một trong những chính sách đó là đẩy mạnh việc đăng ký bảo hộ tài sản trí tuệ trong nước cũng như ngoài nước. Do đó, trong những năm qua, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện với mục tiêu bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của các chủ thể, trong đó có doanh nghiệp, viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo cũng như các tổ chức khoa học công nghệ là tìm được đầu ra cho các sản phẩm nghiên cứu, làm sao cho các sản phẩm này đi vào thực tế và vượt qua được một khoảng cách lớn từ các kết quả nghiên cứu đến sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Cùng với đó là cơ cấu tổ chức, nhân lực của bộ phận quản trị tài sản trí tuệ và chuyển giao công nghệ chưa được đầu tư đúng mức. Một số đơn vị chưa có được các phòng, ban chuyên trách về sở hữu trí tuệ, cán bộ hoạt động sở hữu trí tuệ còn kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác. Do đó, nhìn một cách tổng thể thì hoạt động quản lý nhà nước về tài sản trí tuệ và hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ trong thời gian vừa qua đã có những kết quả nghi nhận và bên cạnh đó, xuất phát từ bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cũng như hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam thì hoạt động này cũng còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Nguyên nhân của thực trạng trên có nhiều yếu tố khác nhau, cả chủ quan và khách quan.

Trong thời gian qua, ngoài việc chú trọng khai thác thương mại của quyền sở hữu công nghiệp, khai thác thương mại từ quyền tác giả và quyền liên quan cũng được chú trọng, đem lại những lợi ích kinh tế, văn hoá xã hội to lớn, phù hợp với xu thế thương mại hoá tài sản trí tuệ trên thế giới. Tuy nhiên, cách thức triển khai vẫn còn có những hạn chế nhất định, do đó trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp để thu hút sự quan tâm, tham gia của các chủ thể ở cả trong và ngoài nước đối với hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ, qua đó góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội và là yếu tố cốt lõi để thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, bảo đảm môi trường đầu tư, duy trì lợi thế cạnh tranh, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam trong thời gian tới.

2. Đặc điểm của thương mại hóa tài sản trí tuệ

Tài sản trí tuệ là kết quả của hoạt động khoa học và công nghệ. Khoa học trong trường hợp này được hiểu theo nghĩa cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn. Công nghệ trong trường hợp này được hiểu là công nghệ có thể chuyển giao độc quyền hoặc công nghệ không thể chuyển giao độc quyền. Còn thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ… giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác. Trên cơ sở đó, có thể thấy thương mại hóa tài sản trí tuệ có đẩy đủ những đặc điểm chung của hoạt động thương mại và cũng có những đặc điểm riêng biệt về hoạt động thương mại đối với loại tài sản “trí tuệ”, những đặc điểm riêng biệt đó cụ thể như sau:

Thứ nhất, đối tượng của hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ đó là quyền sở hữu trí tuệ đối với một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định. Đối tượng này có thể được chuyển nhượng, mua bán hoặc cung ứng theo nhu cầu giữa các bên trên cơ sở sự thoả thuận cũng như căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành.

Thứ hai, mục đích của các bên khi thực hiện hoạt động thương mại nói chung và thương mại hóa tài sản trí tuệ nói riêng đều là nhằm mục đích lợi nhuận. Cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, các chủ thể thực hiện hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ dù dưới hình thức nào, cũng đều nhằm mục đích tạo ra điều kiện cũng như khả năng trao đổi quyền sở hữu trí tuệ, giao lưu thương mại, đảm bảo việc tạo ra một nguồn thu nhập, một khoản tiền lợi nhuận từ những hoạt động này.

Thứ ba, trong cùng một thời điểm, tài sản trí tuệ có thể được mua bán, trao đổi với nhiều người cùng sử dụng hoặc nhiều lần sử dụng, mà việc sử dụng của người này có thể ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng tới việc sử dụng của người khác phụ thuộc vào sự thoả thuận của từng bên trong quá trình mua bán, trao đổi.

Thứ tư, phạm vi thực hiện hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn được thực hiện ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam, trong phạm vi khu vực và thế giới, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, mở cửa nền kinh tế. Thông qua đó khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.

Hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ là một trong những phạm trù đặc thù của quan hệ kinh doanh thương mại đối với một loại tài sản đặc thù là “trí tuệ” – là cơ sở để phát triển nền kinh tế nội tại của quốc gia cũng như sự giao thương, củng cố vị thế quốc gia trên thương trường quốc tế. Đồng thời, qua việc thực hiện các hoạt động thương mại còn cho thấy vai trò của thương nhân, nhà đầu tư, cũng như các cá nhân, tổ chức khác và vai trò của Nhà nước trong việc đóng góp xây dựng và phát triển nền kinh tế.

3. Yêu cầu đối với thương mại hóa tài sản trí tuệ

Thứ nhất, đối tượng của hoạt động thương mại hoá tài sản trí tuệ là quyền sở hữu trí tuệ đối với một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định. Do đó, một trong những yêu cầu quan trọng được đặt ra, làm nền tảng cho hoạt động thương mại hoá tài sản trí tuệ chính là khung pháp lý hoàn chỉnh trong việc quy định về tài sản trí tuệ, làm căn cứ cho những quy trình, quy định có liên quan đối với hoạt động này.

Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với các hoạt động về sở hữu trí tuệ nói chung và thương mại hóa tài sản trí tuệ nói riêng. Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng sẽ góp phần thúc đẩy đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, củng cố môi trường hoà bình, ổn định, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, trước yêu cầu của tình hình mới đối với sự phát triển của tài sản trí tuệ cũng như thương mại hóa tài sản trí tuệ thì đất nước ta đang đứng trước nhiều thử thách lớn, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu hơn. Mặt khác, về mặt lý luận cũng còn nhiều vấn đề cần được làm rõ, nhất là về nội dung, mô hình, bước đi, tổ chức thực hiện ở cả trung ương và địa phương. Do đó, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước sẽ góp phần tạo điều kiện hội nhập với nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới qua đó là điều kiện để chúng ta tiếp thu, đẩy mạnh cũng như tạo ra một “sân chơi ” lành mạnh về những thành tựu khoa học và công nghệ nói chung cũng như thúc đẩy sự phát tiển của tài sản trí tuệ và thương mại hóa tài sản trí tuệ.

Thứ ba, nhanh chóng thúc đẩy việc chuyển đổi tư duy từ phát triển nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp sang chủ động sáng tạo, vươn lên, làm chủ về công nghệ và sở hữu trí tuệ; đưa các sản phẩm nghiên cứu trở thành tài sản trí tuệ, khuyến khích ứng dụng khoa học, công nghệ vào thực tiễn. Việc các sản phẩm nghiên cứu không được đưa vào khai thác thương mại đã gây thất thoát, lãng phí cho Nhà nước và xã hội. Để chủ động phát triển, nước ta phải thoát khỏi sự tăng trưởng dựa vào nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp ráp, thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất. Thực tế cho thấy, nền công nghiệp hỗ trợ nước ta còn phát triển chậm, trình độ hạn chế, nhiều nguyên liệu đầu vào quan trọng chưa sản xuất được nên phụ thuộc lớn vào nhập khẩu; việc tham gia trong chuỗi giá trị toàn cầu ở nhiều sản phẩm vẫn chỉ ở công đoạn cuối cùng nên giá trị gia tăng không lớn. Đại hội XIII đánh giá: “Mô hình tăng trưởng chưa dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp, vẫn còn phụ thuộc vào bên ngoài”6. Do vậy, cần thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, chủ động sáng tạo, vươn lên, làm chủ về công nghệ và sở hữu trí tuệ. Thương mại hóa tài sản trí tuệ cần phải được xây dựng thành chiến lược dài hạn và được triển khai theo từng giai đoạn tương ứng với các giai đoạn thị trường. Thương mại hóa tài sản trí tuệ được xem là điều kiện tiên quyết để đưa sản phẩm thương hiệu Việt Nam lên tầm cao mới nâng cao vị thế doanh nghiệp và nền kinh tế. Muốn làm được điều đó không có con đường nào khác phải dựa trên nền tảng tài nguyên trí tuệ để sáng tạo công nghệ.

Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sang giai đoạn mới nhằm tận dụng tri thức về tài sản trí tuệ và đột phá đổi mới sáng tạo trong thương mại hóa tài sản trí tuệ. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam chưa đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như các nước tiên tiến trên thế giới, nhưng cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã mở ra cơ hội để nước ta thay vì “đi sau” thì có thể nỗ lực để “đi cùng”, một số lĩnh vực mũi nhọn, có thế mạnh, có thể phấn đấu “đi trước, vượt trước”, đặc biệt trong đó là sở hữu trí tuệ và thương mại hóa về sở hữu trí tuệ. Đại hội XIII chủ trương “chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao ”. Cùng với cơ hội, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư cũng đưa đến những thách thức không nhỏ cho Việt Nam. Theo đó, khả năng tối ưu hóa các nguồn lực và sự kết nối của nền kinh tế nói chung và thương mại hóa tài sản trí tuệ nói riêng tạo ra áp lực cạnh tranh kinh tế, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư ngày càng quyết liệt, gay gắt hơn. Trong thời gian tới, đất nước ta sẽ hội nhập sâu rộng hơn và phải thực hiện đầy đủ, hiệu quả các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong điều kiện nền kinh tế phát triển chưa bền vững, việc thúc đẩy chuyển đổi quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sang giai đoạn tận dụng nguồn tài sản về trí tuệ và thương mại hóa về tài sản trí tuệ là vấn đề then chốt thúc đẩy sự phát triển của kinh tế đất nước.

Thứ năm, thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh trên nền tảng thương mại hóa tài sản trí tuệ. Theo đó, nước ta vẫn là một quốc gia có tỷ trọng nông nghiệp cao, do đó nông nghiệp luôn là mục tiêu quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp của mỗi địa phương nói chung và tại Việt Nam nói riêng là điều hết sức cần thiết. Theo đó, cần phải định hướng phải chủ động phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái dựa trên sự tiến bộ khoa học – công nghệ cũng như đảm bảo về quyền sở hữu trí tuệ trên thực tiễn nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương, qua đó thúc đẩy hoạt động thương mại hóa tài sản trí tuệ thông qua việc đổi mới tổ chức, phát triển kinh tế hợp tác, thu hút doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản trên thương trường quốc tế.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon