Quỹ đầu tư chứng khoán, văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có pháp nhân hay không?

quy-dau-tu-chung-khoan-van-phong-dieu-hanh-cua-nha-dau-tu-nuoc-ngoai-tai-viet-nam-co-phap-nhan-hay-khong

Đối với những người đầu tư nói riêng và người dân nói chung, trong những năm gần đây, thuật ngữ quỹ đầu tư, văn phòng điều hành không còn xa lạ. Tuy nhiên, về bản chất Quỹ đầu tư chứng khoán, văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có pháp nhân hay không thì không phải ai cũng biết và nắm rõ. Trong nội dung bài viết dưới đây, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vấn đề này.

1. Quỹ đầu tư chứng khoán

Quỹ đầu tư chứng khoán: Khoản 27 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi bổ sung năm 2010) quy định:

“Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ”.

Quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Nói một cách khác, các nhà đầu tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán để quản lý quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của quỹ. Công ty quản lý quỹ có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc quản lý quỹ gọi là nhà quản trị quỹ. Để đảm bảo công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu tư, quỹ đầu tư chứng khoán cần phải được đặt dưới sự giám sát của một ngân hàng. Ngân hàng này sẽ thay mặt các nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt động đúng mục tiêu mà các nhà đầu tư đã đề ra, tránh tình trạng công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhà đầu tư.

Về mặt pháp lý, các quỹ đầu tư chứng khoán có tài sản độc lập với tài sản của công ty quản lý quỹ và các quỹ khác do công ty này quản lý. Đặc điểm này đảm bảo việc đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán tuân thủ đúng mục đích đầu tư, không bị chi phối bởi lợi ích khác của công ty quản lý quỹ. Sự tách bạch về tài sản giữa công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán đảm bảo việc công ty quản lý quỹ hoạt động độc lập, vì lợi ích của các nhà đầu tư vào quỹ chứ không vì mục đích khác[1].

2. Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động hợp tác kinh doanh

Khoản 1 Điều 49 Luật Đầu tư năm 2014 quy định:

Nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để thực hiện hợp đồng. Địa điểm văn phòng điều hành do nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC quyết định theo yêu cầu thực hiện hợp đồng”.

Nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là các cá nhân có quốc tịch nước ngoài hoặc các tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam[2]. Khi xác lập, thực hiện các hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp đồng BCC – Business Cooperation Contract) nhằm mục đích phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm với những nhà đầu tư khác, mà không muốn thành lập pháp nhân. Pháp luật Việt Nam ghi nhận, cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam để thực hiện hợp đồng. Văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng BCC có con dấu riêng; được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh trong phạm vi quyền và nghĩa vụ quy định tại hợp đồng BCC và Giấy chứng nhận đăng ký thành lập văn phòng điều hành.

Về chủ thể của hợp đồng hợp tác kinh doanh là các nhà đầu tư, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Hợp đồng BCC có thể được ký kết giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau hoặc giữa nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư nước ngoài. Số lượng chủ thể trong từng hợp đồng BCC không bị giới hạn, tùy thuộc vào quy mô dự án và nhu cầu, khả năng mong muốn của các nhà đầu tư. Việc không tạo ra pháp nhân trong hợp hợp đồng BCC khiến việc hợp tác giữa các bên không chặt chẽ; các bên gặp không ít khó khăn khi triển khai hợp đồng, nhất là hợp đồng giữa một bên là cá nhân, pháp nhân Việt Nam với một bên là nhà đầu tư nước ngoài. Trong nhiều trường hợp nhà đầu tư nước ngoài không đủ tư cách pháp lý để thiết lập các giao dịch tại trên lãnh thổ Việt Nam.

Một yếu tố cần thiết giúp cho các bên có thể thực hiện hợp đồng BCC là các bên tham gia hợp đồng BCC phải thành lập ban điều phối để thực hiện dự án của hợp đồng. Khoản 3 Điều 28 Luật Đầu tư năm 2014 quy định, “3. Các bên tham gia hợp đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận”. Tuy nhiên, điều hạn chế ở đây là ban điều phối không phải hội đồng quản trị của các bên, không có chức năng đại diện cho các bên trong các giao dịch dân sự. Ban điều phối chỉ có quyền giám sát việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng mà thôi.

3. Tổng kết

BLDS năm 2015 đã khẳng định, nó là luật chung quy định về địa vị pháp lý, chuẩn mực ứng xử của các nhân, pháp nhân; quyền và nghĩa vụ về nhân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập và tà sản và tự chịu trách nhiệm, đồng thời làm rõ hơn về mối quan hệ giữa BLDS với các luật khác có liên quan theo hướng tôn trọng, ghi nhận việc áp dụng luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể với điều kiện không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự[3]. Trường hợp quy định của luật khác có liên quan vi phạm nguyên tắc cơ bản của BLDS hoặc những luật này không có quy định thì quy định của BLDS năm 2015 được áp dụng[4]. Khác với BLDS năm 2005[5], BLDS năm 2015 quy định chủ thể quan hệ dân sự gồm hai chủ thể cơ bản là cá nhân và pháp nhân; trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự[6].

Theo quan điểm của tác giả, quy định này là cần thiết và hợp lý, bởi nó khắc phục được những hạn chế trên thực tế khi để hộ gia đình, tổ hợp tác, các tổ chức không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập như trong BLDS năm 2005 trước đấy[7]. Các quy định tại Điều 4, Điều 101 và các điều khoản khác có liên quan trong BLDS năm 2015 không phủ nhận sự tham gia quan hệ dân sự của các thực thể pháp lý (hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư các pháp nhân). Điều này có nghĩa BLDS năm 2015 vẫn công nhận cho Hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được tham gia các quan hệ dân sự[8]. Tuy nhiên, mục đích của BLDS năm 2015 hướng đến là việc xác định chính xác những cá nhân, pháp nhân có quyền và nghĩa vụ trong trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia vào quan hệ dân sự; từ đó góp phần đảm bảo cho các thực thể pháp lý này tham gia các quan hệ pháp luật phù hợp với địa vị pháp lý của chúng.

[1] Theo Phụ lục 9 Thông tư 212/2012/TT-BTC ngày 05/12/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn thành lập, tổ chức và hoạt động công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư chứng khoán gồm: Quỹ có tư cách pháp nhân (bao gồm công ty đầu tư chứng khoán đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ, công ty đầu tư chứng khoán bất động sản) và Quỹ không có tư cách pháp nhân (bao gồm quỹ đóng, quỹ mở, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ ETF, quỹ thành viên).

[2] Xem khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014

[3] Xem Điều 3 BLDS năm 2015

[4] xem Điều 4 BLDS năm 2015

[5] BLDS năm 2005 quy định 4 chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.

[6] Xem khoản 1 Điều 101 BLDS năm 2015

[7] Hạn chế lớn nhất khi thừa nhận Hộ gia đình là chủ thể độc lập tham gia quan hệ dân sự là việc xác định cách thành viên của của Hộ gia đình trên thực tế. Như phân tích ở phần trên, vấn đề này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho các chủ thể khác khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự đối với Hộ gia đình. Hơn nữa, trong trường phải giải quyết tranh chấp liên quan đến các giao dịch dân sự do Hộ gia đình xác lập, thực hiện Toà án rất khó khăn trong việc xác định chủ thể tham gia tố tụng.

[8] Các thực tế pháp lý này dù không có tư cách pháp nhân nhưng được coi là loại hình tổ chức độc lập với thành viên hay chủ sở hữu, vẫn đang là chủ thể trong các quan hệ pháp luật như lao động, sản xuất kinh doanh…  Do đó, BLDS năm 2015 nói chung và các luật có liên quan nói riêng không thể phủ nhận sự tồn tại thực tế của chúng.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon