Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

bao-dam-quyen-bao-chua-cua-nguoi-bi-buoc-toi-trong-to-tung-hinh-su-viet-nam

Trong hệ thống tư pháp Việt Nam, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội đóng vai trò quan trọng, đồng thời là nền tảng cốt lõi của sự công bằng và minh bạch trong quá trình tố tụng hình sự. Quyền này không chỉ là một nguyên tắc pháp lý mà còn là biểu hiện của sự tôn trọng đối với quyền con người và nguyên lý vô tư pháp của cá nhân. Để đảm bảo rằng mọi công dân đều có cơ hội công bằng để bảo vệ mình trước pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam đã và đang trải qua quá trình điều chỉnh và sửa đổi để làm rõ và hiệu quả hóa các quy định liên quan đến quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Trong phạm vi bài viết này, Luật Dương Gia sẽ tập trung phân tích vào các biện pháp bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.

Căn  cứ pháp lý:

Thuê Luật sư hình sự tại Đà Nẵng

1. Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

1.1. Khái niệm về quyền con người

Quyền con người là giá trị chung của nhân loại, là thành quả của cuộc đấu tranh của con người qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong thời đại hiện nay, bảo đảm quyền con người đã trở thành mục tiêu phấn đấu chung của cộng đồng quốc tế và là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Hiện nay, pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều có những quy định về quyền con người trong đó có quyền con người của người bị buộc tội.

Năm 1966, Liên hợp quốc đã thông qua hai công ước về quyền con người trong đó có Công ước về quyền dân sự và chính trị. Công ước này đã ghi nhận mọi người các quyền bình đẳng trước pháp luật, được bảo hộ pháp lý nếu bị xâm phạm quyền tự do; quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ,…

Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế và tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người nhằm thúc đẩy và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho người dân Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế.

 Khác với những bản Hiến pháp đều xếp quyền bào chữa trong chương về cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 2013 không chỉ quy định quyền bào chữa của bị can, bị cáo là một nguyên tắc của hoạt động xét xử mà quyền bào chữa còn được mở rộng đối với “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử”. Như vậy, Hiến pháp đã xác định rõ quyền bào chữa là quyền con người, quyền công dân nên không chỉ cơ quan xét xử mà tất cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội phải có trách nhiệm tôn trọng và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.

1.2. Quyền của người bị buộc tội.

Người bị buộc tội là người bị chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự. “Sự buộc tội được coi là hiện hữu từ thời điểm một người được thông báo chính thức bởi cơ quan có thẩm quyền về những chứng cứ rõ ràng cho rằng (nghi vấn) anh ta đã thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: lệnh bắt, lệnh khám xét nhà…). Và kể từ thời điểm đó, một người bị coi là người bị buộc tội trong vụ án hình sự. Sự buộc tội sẽ tồn tại và kéo dài trong suốt quá trình tố tụng chứng minh hành vi của người bị cáo buộc là có tội hay không có tội”. Tùy theo quy định của pháp luật mỗi nước mà phạm vi, tên gọi của người bị buộc tội có thể khác nhau. Theo BLTTHS năm 2015, người bị buộc tội là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

1.3. Quyền bào chữa

Quyền quan trọng nhất trong các quyền con người của người bị buộc tội. Quyền bào chữa của người bị buộc tội là tất cả những việc họ được làm, được hưởng, được đòi hỏi nhằm hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội, chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình. Pháp luật tố tụng hình sự các nước trên thế giới đều quy định về quyền bào chữa như một trong những quyền cơ bản và quan trọng nhất của người bị buộc tội.  Mặt khác, việc thực hiện quyền bào chữa còn là yêu cầu khách quan của tố tụng hình sự để việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đầy đủ.

1.4. Chức năng bào chữa

Một trong những điều kiện cần thiết giúp cho phán quyết của Toà án được công bằng, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Như vậy, có thể hiểu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là làm cho các quyền đó chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết để thực hiện được. Muốn vậy, cần phải có những điều kiện cần thiết có tính toàn diện và đồng bộ. Cụ thể là một số điều kiện sau:

– Phải có chủ trương, đường lối đúng đắn về vấn đề quyền con người nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự nói riêng.

– Phải có những quy định pháp lý đầy đủ, hợp lý về quyền bào chữa của người bị buộc tội và những quy định pháp luật để bảo đảm và bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự.

– Phải hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật để đảm bảo pháp luật được thực hiện đầy đủ và thống nhất. Nếu pháp luật không đảm bảo tính minh bạch và nhất quán hoặc trình độ nhận thức của cán bộ tư pháp không đáp ứng yêu cầu thì có thể dẫn đến việc pháp luật bị hiểu sai, hiểu theo nhiều nghĩa và việc áp dụng pháp luật sai hoặc không thống nhất.

– Phải đảm bảo khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia và tiến hành tố tụng. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng là hành vi của các chủ thể quan hệ tố tụng. Vì vậy, việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự phụ thuộc vào khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan.

– Phải có cơ chế giám sát hoạt động tố tụng hình sự và vận hành tốt cơ chế này để kịp thời yêu cầu các chủ thể tiến hành tố tụng thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm quyền con người. Đây cũng là điều kiện cần thiết để quyền bào chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự được bảo đảm thực hiện.

– Phải có chế độ trách nhiệm rõ ràng, cụ thể đối với các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu vi phạm quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung và quyền bào chữa của người bị buộc tội nói riêng. Chế độ trách nhiệm này để những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhận thức rõ trách nhiệm và trên cơ sở đó điều chỉnh hành vi tố tụng của mình.

– Cơ sở vật chất là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện quyền con người. Nhà nước cần có những đầu tư phù hợp cho việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người nói chung và quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự nói riêng v.v..

2. Những điểm mới trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội

­- Chuyển từ “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội” sang “nguyên tắc suy đoán vô tội”.

– Bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong xét xử với nội dung đầy đủ, nâng cao quyền bào chữa.

2.2. Mở rộng diện người được bảo đảm quyền bào chữa

Để bảo đảm tốt hơn quyền tự bào chữa của người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quyền cho người bị buộc tội theo hướng bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền tự bào chữa.

2.3. Trách nhiệm và nghĩa vụ của người bào chữa

Người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật.

2.4. Thủ tục tố tụng

– Mở rộng, điều chỉnh các trường hợp được cơ quan tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa: BLTTHS năm 2015 đã mở rộng trường hợp chỉ định người bào chữa trên cơ sở nhận thức “sự buộc tội càng cao thì sự bào chữa càng phải lớn, tội phạm càng nghiêm trọng thì càng phải coi trọng việc bào chữa, đồng thời bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam”.

– Để bảo đảm tốt hơn quyền nhờ người bào chữa, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, BLTTHS đã mở rộng diện người bào chữa, bao gồm cả trợ giúp viên pháp lí trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lí. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm quyền tiếp cận người bào chữa của người bị buộc tội.

– Để bảo đảm cho người bào chữa có thể nhanh chóng tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị buộc tội và để tránh nhận thức không chính xác. BLTTHS năm 2015 quy định thời gian giải quyết đăng kí bào chữa được rút ngắn hơn thời gian cấp giấy chứng nhận bào chữa trước đây. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp.

– Để người bào chữa thực hiện được quyền tham gia các hoạt động tố tụng, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định. Quy định này khắc phục được tình trạng người bào chữa không thực hiện được quyền than gia hoạt động hỏi cung và các hoạt động tố tụng khác vì không được thông báo về thời gian, địa điểm tiến hành.

– Nhằm tạo điều kiện để người bào chữa được tiếp xúc với người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 quy định rõ thủ tục cho người bào chữa gặp người bị buộc tội đang bị tạm giam.

– Quy định về thủ tục tố tụng liên quan đến việc thực hiện quyền bào chữa, đặc biệt là thủ tục tố tụng tại phiên tòa có những thay đổi phù hợp với những quy định mới về địa vị pháp lí của người bị buộc tội, người bào chữa và các chủ thể, theo đúng định hướng của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội và những nguyên tắc cơ bản khác.

3. Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS nhằm tăng cường bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội

3.1. Bổ sung một số quy định:

– Bổ sung quy định tại điểm đ Khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 để thống nhất với Điều 58 BLTTHS năm 2015 với nội dung “người bị buộc tội là người bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.

– Bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015 về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện đề nghị thu thập chứng cứ của người bào chữa.

“Điều 81. Thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa

3. Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét thực hiện theo yêu cầu hợp pháp của người bào chữa, nếu không thực hiện được phải có thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.”

3.2. Sửa đổi một số quy định:

Điều 77 BLTTHS năm 2015 quy định mọi trường hợp thay đổi hoặc từ chối người bào chữa đều phải có sự đồng ý của người bị buộc tội và được lập biên bản đưa vào hồ sơ vụ án, trừ trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi. Thay đổi quy định về sự đồng ý của người bị buộc tội khi thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Không cần sự đồng ý nếu người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa, hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc dưới 18 tuổi. Điều này nhằm đảm bảo quyền bào chữa của những đối tượng có khả năng bào chữa hạn chế.

Khoản 5 Điều 78 BLTTHS năm 2015: Thay đổi quy định về việc từ chối đăng ký bào chữa, không cần ý kiến của đại diện nếu người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối. Điều này giúp giảm bớt thủ tục pháp lý và tăng tính linh hoạt trong quá trình bảo đảm quyền bào chữa.

Khoản 6 Điều 78 BLTTHS năm 2015: Loại bỏ giá trị sử dụng của văn bản thông báo người bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất, tâm thần, hoặc dưới 18 tuổi. Quy định này giảm rủi ro việc người bị buộc tội bị ảnh hưởng bởi những quyết định đột ngột của người đại diện.

Khoản 2 Điều 291 BLTTHS năm 2015: quy định về sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm hình sự như sau: “Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Sửa đổi quy định về việc tiếp tục xét xử khi người bào chữa vắng mặt. Cần sự đồng ý của cả bị cáo và người đại diện để tiếp tục xét xử, không chỉ cần một trong hai. Điều này nhằm đảm bảo sự chắc chắn và thống nhất trong quá trình xét xử.

Khoản 1 Điều 422 BLTTHS quy định: “người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa” là không hợp lý, không thống nhất với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội Điều chỉnh quy định về quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi, phù hợp với quy định tại Điều 16 BLTTHS năm 2015. Điều này giúp đảm bảo sự thống nhất và công bằng trong quá trình xét xử đối với nhóm đối tượng này.

Trên đây là nội dung phân tích về “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”. Nếu còn bất kỳ thắc mắc nào xung quanh nội dung trên hoặc những vấn đề pháp luật khác cần giải đáp, hãy liên hệ Luật Dương Gia qua Hotline 1900.6586 để được tư vấn và hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon