Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

bat-dau-lai-thoi-hieu-khoi-kien-vu-an-dan-su

Thời hiệu khởi kiện là thời gian do pháp luật quy định để người có quyền khởi kiện thực hiện quyền của mình. Sau thời hạn này, nếu người có quyền khởi kiện không thực hiện, họ sẽ mất quyền khởi kiện và không được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, thời hiện khởi kiện có thể bắt đầu lại. Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người có quyền khởi kiện trong những trường hợp họ không thể thực hiện quyền khởi kiện trong thời hạn do luật định. Bài viết này sẽ phân tích về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

Căn cứ pháp lý: 

Bộ luật Dân sự 2015

1. Quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

1.1  Định nghĩa thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Theo quy định tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS), thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể quyền dân sự được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Nếu quá thời hạn khởi kiện, chủ thể quyền sẽ mất quyền khởi kiện, không được Toà án xem xét và giải quyết.

Trên đây là khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Tuy nhiên, để nắm rõ khái niệm này, Bộ luật Dân sự có giải thích các khái niệm liên quan gồm:

– Thời hiệu là thời hạn mà khi kết thúc thời hạn đó sẽ phát sinh hậu quả pháp lý với chủ thể theo điều kiện do luật quy định.

– Khởi kiện là việc cá nhân, tổ chức gửi đơn khởi kiện đến Toà án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu cơ quan này bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc khởi kiện có thể tự thực hiện hoặc thông qua người đại diện hợp pháp.

1.2 Cách tính thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Điều 151 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cách tính thời hiệu như sau:

“Thời hiệu được tính từ thời điểm bắt đầu ngày đầu tiên của thời hiệu và chấm dứt tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hiệu.”

Trong đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được bắt đầu tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết/phải biết về quyền cũng như lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Tùy thuộc vào từng loại vụ việc, quy định thời hiệu khởi kiện theo từng vụ án dân sự có thể khác nhau, cụ thể như sau:

  • Thời hiệu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng dân sự là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm (Điều 429 BLDS 2015);
  • Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm kể từ ngày người yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích của mình hợp pháp bị xâm phạm (Điều 588 BLDS 2015);
  • Thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với yêu cầu chia di sản là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản (Khoản 1 Điều 623 BLTTDS năm 2015);
  • Thời hiệu đối với yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm (Khoản 2 Điều 623 BLTTDS năm 2015);
  • Thời hiệu đối với yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế (Khoản 3 Điều 623 BLTTDS năm 2015),……

1.3 Trường hợp áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

Việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được quy định tại Điều 155 Bộ luật Dân sự gồm các trường hợp sau đây:

Thứ nhất, yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản;

Các quyền nhân thân như danh dự, nhân phẩm là những quyền lợi cơ bản, gắn liền với bản thân con người. Việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện cho các yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân giúp đảm bảo các quyền lợi này được bảo vệ một cách đầy đủ và hiệu quả. Ví dụ: yêu cầu bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, …

Thứ hai, yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác;

Quyền sở hữu là quyền cơ bản, quan trọng nhất trong các quyền dân sự, cần được bảo vệ chặt chẽ.

Thứ ba, tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai;

Luật Đất đai có những quy định riêng về thời hiệu khởi kiện cho các tranh chấp liên quan đến đất đai.

Thứ tư,  trường hợp khác do luật quy định.

2. Quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện dân sự

2.1 Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện là gì?

Căn cứ Khoản 3 Điều 150 bộ luật dân sự 2015: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo đó bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn được tính lại từ đầu để người khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự.

2.2 Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự theo quy định pháp luật

Theo quy định pháp luật dân sự hiện hành thì tùy vào từng trường hợp thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự có thể là 03 năm, 10 năm hoặc 30 năm. Trong thời hạn cụ thể này, nếu không khởi kiện hoặc không phát sinh các sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan theo quy định tại Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 thì sẽ người có yêu cầu mất quyền khởi kiện. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật quy định về việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự theo Điều 157 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

Thứ nhất, bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

Bên có nghĩa vụ thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện là trường hợp bên có nghĩa vụ thực hiện hành vi thừa nhận về sự tồn tại và phạm vi của nghĩa vụ mà mình phải thực hiện.

Sự thừa nhận này có thể được thực hiện bằng thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như:

Thỏa thuận bằng văn bản: Đây là hình thức phổ biến nhất, được thể hiện qua các văn bản như hợp đồng, biên bản thỏa thuận, cam kết thanh toán.

Thừa nhận bằng lời nói: Việc thừa nhận bằng lời nói cần có sự chứng kiến của hai người làm chứng có đủ năng lực hành vi dân sự.

Hành vi thực tế: Bên có nghĩa vụ thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình cũng được coi là sự thừa nhận nghĩa vụ.

Ví dụ:

Ngày 21/5/2015, ông A cho ông B vay 500 triệu đồng với lãi suất 3%/tháng, lãi suất được thanh toán hàng tháng và khoản vay được hoàn trả trong vòng 6 tháng. Sau khi nhận tiền vay, ông B đã thanh toán lãi suất trong 3 tháng đầu tiên. Tuy nhiên, sau đó ông B không tiếp tục thanh toán lãi suất và cũng không trả lại tiền gốc.

Ngày 1/5/2022, ông A nộp đơn kiện ra tòa án yêu cầu ông B thanh toán gốc và lãi theo thỏa thuận. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông B thừa nhận chỉ vay ông A 300 triệu đồng và không đồng ý trả lãi vì gặp khó khăn về tài chính. Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản là 03 năm. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, ông B thừa nhận đã vay 300 triệu đồng từ ông A, do đó thời hiệu khởi kiện sẽ được tính lại từ thời điểm ông B thừa nhận khoản vay này.

Thứ hai, bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện;

Bên có nghĩa vụ thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện là trường hợp bên có nghĩa vụ hoàn thành một phần công việc hoặc trách nhiệm mà họ đã cam kết hoặc được pháp luật quy định. Việc thực hiện xong một phần nghĩa vụ này có thể được thực hiện bằng hành động cụ thể.

Phải là nghĩa vụ có thể chia nhỏ thực hiện.

Việc thực hiện phải được hoàn thành một cách đầy đủ và đúng hạn.

Ví dụ: Cũng theo ví dụ trên, nếu trước khi ông A khởi kiện ra tòa án, ngày 01/02/2022 ông B đã trả cho ông A 200.000.000 đồng, hai bên có làm lại giấy biên nhận còn nợ lại 300.000.000 đồng không hẹn khi nào sẽ trả, thì thời hiệu khởi kiện được tính lại từ khi có biên nhận nợ, tức là ngày 01/02/2022.

Thứ tứ, các bên đã tự hòa giải với nhau.

2.3 Cách tính thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại

Khoản 2, Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cách tính thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại như sau:

Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

… …

2. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện quy định tại khoản 1 Điều này.”

Theo đó, thời hiệu khởi kiện bắt đầu lại khi có căn cứ ghi nhận cụ thể được pháp luật dân sự ghi nhận cụ thể: bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện, bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện, các bên đã tự hòa giải với nhau. Thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện là ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện pháp lý đó.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon