Giữ người trong tình huống khẩn cấp, bao gồm việc bắt giữ người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã, bị can, bị cáo để tạm giam, và người bị yêu cầu dẫn độ, cũng như các biện pháp tạm giữ và tạm giam (gọi chung là biện pháp bắt, giam giữ), là các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự. Mục tiêu của chúng là ngăn chặn thực hiện tội phạm, trốn tránh truy cứu trách nhiệm, bảo vệ chứng cứ, và ngăn chặn việc phạm tội mới, đồng thời đảm bảo hiệu quả cao trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, và thi hành án để giảm tội phạm và vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng những biện pháp này cũng đồng nghĩa với việc hạn chế một số quyền và tự do cá nhân, như tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hội họp, và quyền bất khả xâm phạm về thân thể, những quyền được bảo vệ bởi Hiến pháp và pháp luật. Do đó, cần đảm bảo rằng việc áp dụng những biện pháp này được thực hiện một cách chặt chẽ và không tùy tiện, và nhà nước cần ban hành các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền của người bị buộc tội.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015;
– Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015;
– Bộ Luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. Các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ trong tố tụng hình sự
BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi và bổ sung các quy định về biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ để cụ thể hóa Hiến pháp 2013 và khắc phục nhược điểm trong thi hành BLTTHS 2003. Các điều chỉnh này tập trung vào căn cứ áp dụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn áp dụng, mang lại sự hoàn thiện và chi tiết hóa hơn so với trước đây.
– Về căn cứ áp dụng: Điều 109 và các điều từ 110 đến 119, cùng Điều 419 của BLTTHS 2015 cụ thể hóa đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ.
– Về thẩm quyền áp dụng: Các quy định về thẩm quyền ra lệnh và quyết định biện pháp ngăn chặn đều được rõ ràng, trừ trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã.
– Về trình tự, thủ tục áp dụng: Các quy định về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ được quy định chi tiết, cụ thể (đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng, lập biên bản, đại diện chính quyền và người khác chứng kiến tham gia…)
– Về thời hạn áp dụng: Các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ đều có quy định thời hạn tối đa có thể bị áp dụng; quy định việc gia hạn, hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp ngăn chặn này.
2. Kiểm tra, giám sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam
Để bảo đảm quyền được bảo vệ của người bị buộc tội để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện trong tố tụng hình sự được thực hiện trên thực tiễn thì cần có cơ chế giám sát, cơ chế thực hiện và chế tài
2.1. Về cơ chế giám sát, thực hiện
– Bảo đảm quyền của người bị buộc tội tránh bị bắt, giam giữ tùy tiện trong tố tụng hình sự đòi hỏi hoạt động giám sát, tức là theo dõi và kiểm tra cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp bắt, giam giữ xem có tuân thủ quy định pháp luật hay không.
Điều 33 của BLTTHS 2015 đặc điểm quy định về kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự, bao gồm cả việc kiểm tra, giám sát áp dụng biện pháp ngăn chặn, tạm giữ, tạm giam. Các cơ quan và tổ chức, như Nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đảm bảo tính minh bạch và tránh lạm dụng quyền lực.
– Tự kiểm tra bên trong các cơ quan: Hoạt động theo dõi và kiểm tra nội bộ, thực hiện thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra từ cơ quan cấp trên đối với cơ quan áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ. Trong ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án, có quy định về thanh tra nghiệp vụ, đó là cơ chế tự kiểm tra bên trong hệ thống này.
– Giám sát từ các cơ quan bên ngoài: Hoạt động giám sát và kiểm tra của các cơ quan bên ngoài đối với cơ quan áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ. Bao gồm giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại biểu dân cử; kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân và sự tham gia của người bảo chữa trong tố tụng hình sự. Cơ sở giam giữ cũng có trách nhiệm kiểm tra áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định.
Theo Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, giám sát là việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Khoản 1 Điều 25 Luật Mặt trận Tổ chức Việt Nam giải thích giám sát của Mặt trận Tổ quốc là việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử để đảm bảo tuân thủ chính sách, pháp luật.
Vì vậy, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức thành viên đối với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ được thực hiện qua theo dõi, xem xét, và đánh giá hoạt động của cơ quan thực hiện tố tụng.
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân đảm bảo không để người nào bị khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân cũng thực hiện quyền hạn như quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện nhằm đảm bảo tính hợp pháp và có căn cứ của các biện pháp bắt, giam giữ trong tố tụng hình sự.
Đối với việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp và có căn cứ của việc áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền. Nếu có lệnh bắt, tạm giữ, lệnh tạm giam, cần được Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành, và việc gia hạn tạm giam được quyết định bởi Viện kiểm sát.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, đặc biệt khi có bắt, tạm giữ. Quy định này nhằm đảm bảo quyền được bảo vệ của người bị buộc tội và góp phần đảm bảo rằng các biện pháp ngăn chặn được áp dụng đúng theo quy định của pháp luật.
Các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, cùng với quy định về tham gia của người bào chữa và kiểm tra quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, đều nhằm đảm bảo rằng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được thực hiện đúng quy định pháp luật.
2.2. Về chế tài
Đối với các vi phạm của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, giam giữ và trong việc quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam thì cũng có những cơ chế để xử lý. Đối với các hành vi cấu thành tội phạm, những người này có thể bị xử lý theo tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật (Điều 377 BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
3. Một số khó khăn, vướng mắc và giải pháp nhằm bảo đảm quyền bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự
Mặc dù BLTTHS và các quy định hướng dẫn đã có nhiều tiến bộ đảm bảo quyền bảo vệ cho người bị buộc tội, nhưng vẫn tồn tại khó khăn, vướng mắc cụ thể như sau:
3.1. Các căn cứ gia hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam còn chưa cụ thể
– Đối với trường hợp gia hạn tạm giữ, khoản 2 Điều 118 BLTTHS năm 2015 và trường hợp gia hạn tạm giam, khoản 2 Điều 173 BLTTHS năm 2015 cần có hướng dẫn chi tiết về việc gia hạn tạm giữ và tạm giam theo quy định của BLTTHS năm 2015. Hiện tại, quy định về trường hợp cần thiết và đặc biệt chưa được xác định rõ, đồng thời việc gia hạn tạm giam trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng chỉ được đề cập về thẩm quyền áp dụng mà thiếu hướng dẫn cụ thể.
– Đề xuất cơ quan chức năng cần phải có hướng dẫn chi tiết để đảm bảo áp dụng đồng nhất BLTTHS năm 2015. Các trường hợp cần thiết và đặc biệt cần được định rõ, đặc biệt là trong những vụ án phức tạp. Mặc dù đã gia hạn tạm giữ nhưng vẫn chưa làm rõ sự việc, điều này gây khó khăn trong thực hiện các nhiệm vụ giai đoạn cụ thể, nhưng vẫn có lý do để tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam.
3.2. Bất cập trong quy định về trình tự thực hiện việc tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
Theo Khoản 4 Điều 110 BLTTHS năm 2015 Quy định về trình tự giữ người trong trường hợp khẩn cấp có điểm bất cập. Khi có người bị giữ, cơ quan điều tra phải thực hiện các hoạt động điều tra và đưa ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt, hoặc trả tự do trong vòng 12 giờ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 16 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, cơ sở giam giữ chỉ tiếp nhận người bị tạm giữ khi có quyết định tạm giữ. Điều này dẫn đến việc người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có thể không tạm giữ tại cơ sở giam giữ, mà thường được giữ tại trụ sở cơ quan điều tra hoặc một địa điểm khác, điều này chưa được điều chỉnh trong luật và cần được xem xét.
3.3. Việc giải quyết khi hết hạn tạm giữ, tạm giam mà không có lệnh, quyết định nào khác
Theo quy định tại Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, nhà tạm giữ, trại tạm giam có trách nhiệm thông báo với cơ quan thụ lý vụ án trước thời hạn 01 ngày đối với tạm giữ, 05 ngày đối với tạm giam, 10 ngày đối với gia hạn tạm giam, và yêu cầu cơ quan đó giải quyết theo pháp luật. Trường hợp không giải quyết, cơ quan đang thụ lý vụ án kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân. Thông tư liên tịch số 01/2018/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC cũng quy định về quan hệ phối hợp giữa cơ sở giam giữ và cơ quan tiến hành tố tụng, yêu cầu cơ quan thụ lý vụ án thông báo về thời hạn tạm giữ, tạm giam.
Hiện nay, không có văn bản hướng dẫn khi hết hạn tạm giữ, tạm giam mà không có quyết định mới, không thay đổi biện pháp ngăn chặn khác hoặc không có quyết định trả tự do. Trong trường hợp này, Viện kiểm sát nhân dân cần xử lý như thế nào? Theo Thông tư số 08/2001/TT-BCA, trường hợp hết thời hạn mà không có quyết định trả tự do, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi bằng biện pháp khác, không thuộc trường hợp Trưởng nhà tạm giữ, giám thị trại tạm giam trả tự do. Điều 13 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định rằng Nhà tạm giữ, Trại tạm giam trả tự do theo quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền.
Theo Điều 45 Quy chế kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không ra quyết định trả tự do trong trường hợp hết thời hạn mà không có lệnh nào khác. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, cần có văn bản hướng dẫn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp ra quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam; cơ quan tiến hành tố tụng phải chịu trách nhiệm nếu không ban hành các quyết định tiếp theo.
3.4. Việc xác định thời điểm trả tự do cho người bị tạm giam trong trường hợp thời hạn phạt tù bằng thời hạn tạm giam
Trong việc xác định thời điểm trả tự do cho người bị tạm giam khi thời hạn phạt tù được tính bằng thời hạn tạm giam, theo quy định của BLTTHS năm 2015, thời hạn tạm giam được tính theo tháng, 01 tháng là 30 ngày. Tuy nhiên, khó khăn xuất phát từ việc thời hạn phạt tù khi tính theo tháng kết thúc vào ngày trùng của tháng sau, trong khi thời hạn tạm giam không luôn trùng khớp do có những tháng có số ngày khác nhau (30, 31, hoặc 28 ngày).
Ví dụ, một người bị tuyên phạt 7 tháng tù từ ngày 20/10/2018, nếu không có tạm giữ, thời điểm tính chấp hành xong án phạt tù là ngày 20/5/2019. Tuy nhiên, nếu họ bị tạm giữ từ ngày 20/10/2018, thời điểm hết thời hạn tạm giam 7 tháng sẽ là ngày 17/5/2019 (vì tháng 10/2018 có 31 ngày, tháng 11/2018 có 30 ngày, và cứ như vậy). Do đó, việc xác định thời điểm hình phạt tù bằng thời hạn tạm giam có thể dẫn đến sự không nhất quán, và cần giải quyết mâu thuẫn này trong thực tế.
Chúng tôi cho rằng, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam và áp dụng theo hướng có lợi cho người bị buộc tội, thì cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn trường hợp này trả tự do và tính chấp hành xong thời hạn chấp hành án phạt tù theo thời hạn tạm giam.