Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

toi-cho-vay-lai-nang-trong-giao-dich-dan-su

Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi cho vay trong giao dịch dân sự với lãi xuất gấp 05 lần trở lên mức lãi xuất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, có tính chất chuyên bóc lột, nhằm thu lợi bất chính. Theo quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự thì mức lãi xuất cho vay không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có tính chất chuyên bóc lột nhằm thu lợi bất chính là vi phạm pháp luật, tùy theo tình chất, mức độ. Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu nội dung Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự qua bài viết sau.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật hình sự 2015;

– Bộ luật dân sự 2015;

– Nghị định 144/2021/NĐ-CP;

1. Dấu hiệu pháp lý của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

Điều 201 BLHS năm 2015 quy định Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:

“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.00 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đến 100.000.000, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

1.1. Khách thể của tội phạm

Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm phạm đến khách thể là trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về hoạt động tín dụng, mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ; xâm phạm đến lợi ích tài chính của công dân.

1.2. Dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan của Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự được quy định tại khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015 đó là hành vi cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên đạt đến mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội và trở thành tội phạm thì phải đáp ứng điều kiện về số tiền thu lợi bất chính là từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Đặc trưng trong Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là mức lãi suất do các bên thỏa thuận trong hợp đồng vay tài sản. BLHS quy định dấu hiệu bắt buộc để cấu thành Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là “Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự”. Để làm rõ dấu hiệu này trong mặt khách quan của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì chúng ta phải làm rõ quy định của BLDS về lãi suất.

Theo quy định tại Điều 468 BLDS năm 2015 thì lãi suất trong hợp đồng vay được xác định như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Bộ luật dân sự năm 2015 cho phép các bên tự thỏa thuận với nhau về lãi suất đồng thời cũng quy định thêm về mức lãi suất tối đa mà các bên được phép thỏa thuận, mức lãi suất này không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Như vậy, theo quy định tại Điều 468 BLDS và Điều 201 BLHS năm 2015 thì các giao dịch vay tiền mà lãi suất từ 20%/năm của khoản tiền vay trở xuống là giao dịch có lãi suất hợp pháp, nếu các bên trong giao dịch dân sự có thỏa thuận về mức lãi suất từ 21% đến dưới 100%/năm thì đây là trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vưới quá lãi suất giới hạn được pháp luật cho phép, đây là giao dịch bất hợp pháp, mức lãi suất vượt quá sẽ không có hiệu lực pháp luật, nhưng chưa đến mức bị xử lý về hình sự. Trong trường hợp này bên cho vay có trách nhiệm trả lại khoản tiền lãi vượt quá đã nhận của bên vay “Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Trường hợp các bên thỏa thuận mức lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS tức là 100%/năm của khoản tiền vay trở lên, đây là điều kiện cần để xác định một hành vi có bị coi là phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự hay không.

Để hành vi cho vay với lãi suất từ gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS thỏa mãn dấu hiệu cấu thành Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì phải đáp ứng thêm điều kiện về số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Người cho vay phải thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên.

– “Thu lợi bất chính” là số tiền lãi vượt quá mức lãi suất vay cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự và các khoản thu trái pháp luật khác của người vay.

– Trường hợp hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện với nhiều người thì khoản tiền thu lợi bất chính được xác định là tổng số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả những người vay.

– Số tiền thu lợi bất chính khong chỉ là phần lãi suất vượt quá quy định của Nhà nước, mà bao gồm cả các khoản thu trái pháp luật khác do các đối tượng cho vay lãi nặng tự đặt ra buộc người vay phải trả, như: phí giao dịch hoặc các khoản tự đặt ra để phạt người vay.

Thứ hai, Đã bị xử phạt hành chính về hành vi cho vay lãi nặng mà còn vi phạm: Dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính” đã được đưa vào làm một trong những điều kiện để trở thành dấu hiệu định tội của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được ghi nhận tại khung cơ bản của điều luật (Khoản 1 Điều 201 BLHS năm 2015).

Thứ ba, Đã bị kết án về tội nay, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm được sử dụng để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, người phạm tội đã bị Tòa án kết án về Tội cho vay lãi nặng nhưng chưa được xóa án tích theo quy định tại Chương X BLHS năm 2015 nay lại tiếp tục phạm tội cho vay lãi nặng.

Ngoài việc cho vay tiền tệ thì hiện nay hành vi cầm đồ cũng là một trong những hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nếu lãi suất cầm đồ từ 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng, bởi xét về bản chất hành vi cầm đồ thực chất là cho vay tài sản có cầm cố tài sản.

1.3. Mặt chủ quan của tội phạm

Về lỗi: Người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi đó gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

1.4. Chủ thể của tội phạm

Trong pháp luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể được luật hình sự quy định là tội phạm. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự không phải là một trong những tội danh thuộc phạm vi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 76 BLHS năm 2015. BLHS hiện hành quy định chỉ chủ thể là cá nhân mới phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Luật hình sự Việt Nam không quy định như thế nào là trường hợp có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS năm 2015). Như vậy, có thể rút ra được một người được coi là có năng lực trách nhiệm hình sự khi người đó đạt một độ tuổi nhất định theo quy định của BLHS, có đủ khả năng điều khiển hành vi của mình.

Các dấu hiệu định khung của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có một dấu hiệu định khung là “thu lợi bất chính” theo quy định tại Khoản 2, Điều 201 BLHS năm 2015 “Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên”, đây là khung tăng nặng trách nhiệm hình sự.

2. Xử phạt vi phạm hành chính

Tại Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2-21 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, quy định phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng đối với các hành vi sau đây:

– Kinh doanh dịch vụ cầm đồ cho vay tiền có cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự;

– Không đăng ký ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà cho vay tiền có cầm cố tài sản hoặc không cầm cố tài sản nhưng lãi suất cho vay vượt quá tỷ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật Dân sự;

– Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được

3. Xử lý hình sự

Khung 1: Người phạm tội theo quy định tại khoản 1 thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến 3 năm

Khung 2: Người phạm tội theo quy định tại khoản 2 thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên

Hình phạt bổ sung: ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Theo quy định trên, một người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ đủ 16 tuổi trở lên, được coi là có hành phạm tội cho vay lãi nặng khi cho người khác vay tiền thông qua các hình thức như vay, mượn, ký nợ thông qua hợp đồng bằng văn bản, hoặc thỏa thuận miệng, với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên (100%/ số tiền vay/năm) mức lãi xuất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự, có tính chất chuyên bóc lột nhằm thu lợi bất chính; thủ đoạn là lợi dụng người đi vay gặp hoàn cảnh khó khăn đột xuất như thiên tai, bệnh tật hoặc những khó khăn khác cần một số tiền gấp để phục vụ sinh hoạt, khám, chữa bệnh…; Tội phạm được hoàn thành tại thời điểm người phạm tội thu lợi bất chính số tiền từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 30.000.000 đồng, nhưng người này đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay lãi nặng hoặc đã bị kết án về tội cho vay lãi nặng mà chưa được xóa án tích.

Trên đây là nội dung về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào về nội dung trên hoặc những vấn đề pháp lý khác, hãy liên hệ Luật Dương Gia qua Hotline 0931.548.999 để được tư vấn và hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon