Phân tích các nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

phan-tich-cac-nguyen-tac-giai-quyet-tai-san-cua-vo-chong-khi-ly-hon

Kể từ ngày bản án ly hôn hoặc quyết định công nhận thuận tình ly hôn của Toà án có hiệu lực, các bên chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Giữa vợ và chồng chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng cũng được pháp luật quy định cụ thể về nguyên tắc giải quyết nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên sau khi ly hôn.

Căn cứ pháp lý

Thuê luật sư giải quyết tài sản chung tại Đà Nẵng

1. Nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng

Giải quyết tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn. Cụ thể:

– Trường hợp 1: Vợ, chồng thoả thuận về chế độ tài sản

Trong trường hợp vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo nội dung mà vợ chồng đã thoả thuận. Trong trường hợp vợ, chồng thoả thuận không đầy đủ hoặc không rõ ràng thì Toà án áp dụng quy định tương ứng như chế độ tài sản theo quy định của pháp luật để giải quyết.

– Trường hợp 2: Vợ, chồng theo chế độ tài sản Luật định

Trong trường hợp vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản theo Luật định thì khi ly hôn việc giải quyết tài sản do vợ chồng thoả thuận. Nếu vợ, chồng thoả thuận được thì Toà án công nhận sự thoả thuận đó. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được thì Toà án giải quyết theo yêu cầu của vợ, chồng. Khi giải quyết, Toà án áp dụng các quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 và các Điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, giải quyết tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn cần tuân thủ các nguyên tắc sau:

– Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

  • Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
  • Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
  • Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
  • Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng.

– Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị. Bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

– Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Tuân thủ các nguyên tắc trên là nhằm để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, của con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản sản để nuôi mình. Đồng thời đảm bảo cho việc chia tài sản chung khi ly hôn không làm mất giá trị sử dụng của tài sản hoặc ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, nghề nghiệp của mỗi bên.

2. Giải quyết tài sản của vợ chồng trong một số trường hợp cụ thể

2.1. Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn

Về nguyên tắc, khi vợ chồng ly hôn thì quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực. Do vậy, vợ chồng dù đã ly hôn vẫn có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba.

Khi ly hôn, vợ chồng có thể thoả thuận với người thứ ba về việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ tài sản.

Trong trường hợp sau khi ly hôn giữa vợ, chồng và người thứ ba có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các Điều 27, 37 và 45 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết.

2.2. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình

Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, để bảo đảm quyền, lợi ích của vợ chồng, pháp luật quy định vợ, chồng được chia một phần tài sản trong khối tài sản chung của gia đình. Tuy nhiên, việc chia một phần tài sản cho vợ, chồng có thể khác nhau trong hai trường hợp sau:

– Trường hợp thứ nhất: Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ, chồng được trích ra để chia. Khi chia áp dụng các nguyên tắc về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.

– Trường hợp thứ hai: Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng (người sống cùng gia đình của vợ hoặc chồng) được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đòng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thoả thuận với gia đình, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

2.3. Chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn

Khi ly hôn, chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng được thực hiện như sau:

– Đối với đất nông nghiệp trồng cây hằng năm, nuôi trồng thuỷ sản: Nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thoả thuận của vợ, chồng. Nếu không thoả thuận đươc thì theo yêu cầu của vợ, chồng, Toà án áp dụng các nguyên tắc chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn để giải quyết. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng. Trong trường hợp vợ, chồng có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn, phần quyền sử dung đất của vợ chồng được tách ra và chia.

– Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở: Việc giải quyết quyền sử dụng đối với loại đất này khi vợ chồng ly hôn áp dụng các nguyên tắc chia tài sản chung theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

– Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.

2.4. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh

Để bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh, pháp luật quy định: “Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác” (Theo Điều 64 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

3. Giải quyết tài sản riêng của vợ, chồng

Theo quy định tại khoản 4 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác.

Nếu không đủ căn cứ để chứng minh tài sản nào đó là tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì tài sản đó được xác định là tài sản chung của vợ, chồng.

Tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng đã sử dụng để đáp ứng nhu cầu của gia đình thì khi vợ, chồng ly hôn không được đòi lại.

Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó. Nếu chồng hoặc vợ (không phải chủ sở hữu nhà) có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

4. Về quan hệ đối với con chung

Nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ và con sau khi ly hôn được quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khi ly hôn, hai bên cha, mẹ không còn tiếp tục chung sống để chăm sóc, trông nom, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, nếu con chung chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tà sản để tự nuôi mình thì cha, mẹ phải thoả thuận về người trực tiếp nuôi con và quyền, nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.

Việc giao con cho một bên trực tiếp nuôi phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là đảm bảo việc học tập, điều kiện cho sự phát triển về thể chất và tinh thần. Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc các bên không có thoả thuận khác.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, người thực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Vì quyền lợi của con, bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và không được từ chối nhận các khoản cấp dưỡng cho con.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con trong trường hợp này không phụ thuộc vào yêu cầu cũng như khả năng kinh tế của người trực tiếp nuôi con. Dù người trực tiếp nuôi con không yêu cầu bên kia cấp dưỡng và có khả năng kinh tế để nuôi dạy con thì người không trực tiếp nuôi con vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Người không trực tiếp nuôi con có quyền được thăm nom con, nhưng nếu lạm dụng quyền thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của họ. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Trong trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của các bên và vì lợi ích của con, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng cho con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện trong trường hợp người đang trực tiếp nuôi con không bảo đảm được quyền lợi về mọi mặt của con. Thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng phải xem xét đến nguyện vọng của con nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên.

5. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng

Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn là trường hợp cấp dưỡng đặc biệt. Khi vợ, chồng ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, do đó chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Tuy nhiên, nếu vì lý do chính đáng mà một bên vợ hoặc chồng rơi vào tình trạng khó khăn, túng thiếu nên họ yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia sẽ phải cấp dưỡng theo khả năng (Điều 115 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn chỉ phát sinh khi có đủ hai điều kiện:

  • Một bên có khó khăn, túng thiếu, có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng;
  • Bên kia có khả năng cấp dưỡng.

Để được tư vấn pháp luật qua điện thoại, hãy gọi ngay cho Luật sư theo số điện thoại 1900.6568. Mọi nhu cầu tư vấn pháp luật qua điện thoại sẽ được chúng tôi giải đáp!

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon