Miễn trách nhiệm hình sự là gì? Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về miễn trách nhiệm hình sự

mien-trach-nhiem-hinh-su-la-gi-quy-dinh-cua-bo-luat-hinh-su-nam-2015-ve-mien-trach-nhiem-hinh-su

Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bất kỳ trường hợp nào một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định là tội phạm, bị xã hội lên án và đáng bị xử lý về hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS), mà có trường hợp xét thấy không cần thiết phải áp dụng TNHS đối với người đó vẫn đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội, thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không buộc họ phải chịu TNHS mà miễn TNHS. Bài viết dưới đây sẽ phân tích về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự và quy định của BLHS năm 2015 về vấn đề này.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự

Việc quy định chế định miễn TNHS trong luật hình sự Việt Nam vẫn thể hiện sự lên án (phản ứng) của Nhà nước đối với người đã thực hiện tội phạm, đồng thời qua đó còn thực hiện chính sách phân hóa TNHS, cũng như thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản khác (như: pháp chế, dân chủ, nhân đạo, bình đẳng trước luật hình sự…). Đặc biệt, việc ghi nhận chế định miễn TNHS còn nhằm mục đích tiết kiệm và hạn chế việc áp dụng các chế tài pháp lý hình sự, trên cơ sở đó phát huy tính dân chủ và động viên mọi người dân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là gia đình của người phạm tội tích cực tham gia cùng với Nhà nước, xã hội và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội.

Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận và tổng kết nhiều quan điểm khoa học về miễn TNHS, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, miễn TNHS là trường hợp không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người đó.

2. Những đặc điểm cơ bản của miễn TNHS

Miễn TNHS phản ánh những đặc điểm cơ bản sau đây:

a) Miễn TNHS thể hiện sự lên án (phản ứng) đối với người có hành vi phạm tội từ phía Nhà nước và xã hội. Cho nên, mặc dù được miễn TNHS, nhưng người phạm tội vẫn có thể chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự thuộc các ngành luật tương ứng khác (như: tố tụng hình sự, dân sự, hành chính, kỷ luật, lao động…).

b) Miễn TNHS phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội. Nói một cách khác, miễn TNHS thể hiện nguyên tắc “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo” trong luật hình sự Việt Nam. Do đó, “trước hết phải có sự phân hóa TNHS trong luật… sau là cá thể hóa TNHS trong áp dụng…”. Nói một cách khác, quy định miễn TNHS “cũng là một cách hiệu nghiệm của việc thực hiện tốt nguyên tắc không để lọt tội phạm và người phạm tội… và việc quy định chế định miễn TNHS… chứng tỏ rằng, con đường cơ bản, hậu quả cơ bản của tội phạm là TNHS, hình phạt và chấp hành hình phạt, còn tha miễn chỉ là trường hợp cá biệt, cụ thể, khi hoàn cảnh cụ thể đòi hỏi…”.

c) Miễn TNHS thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam. Theo đó, việc áp dụng miễn TNHS tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, không buộc phải cách ly người phạm tội ra khỏi cộng đồng, lấy môi trường đang sinh sống đó làm nơi tự cải tạo, giáo dục. Trong các trường hợp miễn TNHS, thì việc miễn TNHS khi có quyết định đại xá là một trường hợp mang tính nhân đạo sâu sắc thể hiện chính sách khoan hồng, độ lượng của Nhà nước đối với người phạm tội.

d) Miễn TNHS chỉ được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm BLHS, nhưng họ lại có những điều kiện nhất định để được miễn TNHS. Ngoài ra, vì người được miễn TNHS bị coi là người đã thực hiện tội phạm nên họ không được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (Điều 27).

đ) Người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội nhưng có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự được quy định trong các ngành luật khác.

e) Cơ sở, nội dung của chế định miễn TNHS cũng xuất phát từ chế định TNHS.

f) Trường hợp trong một vụ án hình sự có đồng phạm thì việc miễn TNHS chỉ đặt ra đối với người nào nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện do luật định, còn đối với người đồng phạm khác phải chịu TNHS trên những cơ sở chung.

3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về chế định miễn trách nhiệm hình sự

BLHS năm 1985, BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 và BLHS năm 2015 đều quy định miễn TNHS trong Phần chung và Phần các tội phạm với nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy vậy, căn cứ vào nội dung, kỹ thuật lập pháp trong BLHS năm 2015, các nhà làm luật đã quy định những trường hợp miễn TNHS trong Phần chung và Phần các tội phạm Bộ luật này.

3.1. Quy định trong Phần chung BLHS

Phần chung BLHS năm 2015 quy định ba trường hợp đương nhiên được miễn TNHS, một trường hợp có thể (lựa chọn) được miễn TNHS nhưng kèm theo điều kiệnbốn trường hợp có thể được miễn TNHS quy định tại Điều 16, Điều 29 và Mục 2 Chương XII Bộ luật này. Đặc biệt, về tên điều luật riêng về miễn TNHS (Điều 29) được bổ sung cụm từ “căn cứ” để cho phù hợp hơn với nội dung của điều luật, cụ thể là:

a) Trường hợp đương nhiên được miễn TNHS – do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16 BLHS năm 2015). Trường hợp miễn TNHS này không có gì thay đổi so với Điều 19 BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009. Người phạm tội được miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và người phạm tội tự nguyện, dứt khoát từ bỏ ý định phạm tội mặc dù điều kiện khách quan không có gì ngăn cản.

b) Trường hợp đương nhiên được miễn TNHS – khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 1 Điều 29 BLHS năm 2015). So với BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009, các nhà làm luật đã chuyển trường hợp “do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” (trước quy định chung là một trong những căn cứ để đương nhiên được miễn TNHS) thành trường hợp có thể được miễn TNHS (điểm a khoản 2 Điều 29). Ngoài ra, các nhà làm luật cụ thể hóa để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử là do có sự thay đổi “chính sách, pháp luật” làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Điều này thể hiện ở hai nội dung sau đây: Một là, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do có sự thay đổi mà BLHS đã không còn quy định hành vi đó là tội phạm nữa; hai là, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, mặc dù hành vi phạm tội vẫn còn quy định trong BLHS nhưng cơ quan lập pháp chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung, song văn bản, pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực tương ứng đó của Nhà nước đã có sự thay đổi, dẫn đến hành vi đó không còn bị nghiêm cấm, xử lý nữa.

c) Trường hợp đương nhiên được miễn TNHS – khi có quyết định đại xá (điểm b khoản 1 Điều 29 BLHS năm 2015). Trường hợp miễn TNHS này không có gì thay đổi so với khoản 3 Điều 25 BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009. Tính đến nay, với đại xá thì chỉ có hai lần Nhà nước Việt Nam ra quyết định. Cụ thể, lần thứ nhất vào năm 1945 với Sắc lệnh số 52/SL ngày 20/10/1945 xá miễn cho một số tội phạm trước ngày 19/08/1945 và đến lần thứ hai năm 1954 với Thông tư số 413/TTg ngày 09/11/1954 của Thủ tướng Chính phủ về đại xá. Như vậy, người phạm tội được miễn TNHS trên cơ sở văn bản đại xá của Nhà nước, có nghĩa là nếu như người phạm tội đang bị điều tra, truy tố hoặc xét xử thì được miễn TNHS, nếu sau khi bị tuyên hình phạt hay biện pháp cưỡng chế về hình sự khác thì họ được miễn chấp hành hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự ấy, nếu đang phải chấp hành hình phạt, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại chưa chấp hành, giảm thời hạn chấp hành phần hình phạt còn lại; và nếu đã chấp hành xong hình phạt hay các quyết định khác của Tòa án, thì họ được xóa án tích.

d) Trường hợp có thể được miễn TNHS – khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015). Đây là trường hợp đương nhiên được miễn TNHS trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009 nhưng đã được chuyển thành trường hợp có thể được miễn TNHS trong BLHS năm 2015 cho phù hợp với thực tiễn xét xử.

đ) Trường hợp có thể được miễn TNHS – khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015). Đây là trường hợp miễn TNHS mới được bổ sung trong BLHS năm 2015 để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử.

e) Trường hợp có thể được miễn TNHS – người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Trường hợp miễn TNHS này đã được quy định trong BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009. Tuy nhiên, đến BLHS năm 2015 các nhà làm luật đã quy định chặt chẽ hơn, ngoài các căn cứ quy định như tại khoản 2 Điều 25 BLHS năm 1999, sửa đổi năm 2009, thì người phạm tội có thể được miễn TNHS còn phải có thêm điều kiện “lập công lớn” hoặc “có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận” mới được xem xét để miễn TNHS (điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015).

f) Trường hợp có thể được miễn TNHS – người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS, thì có thể được miễn TNHS. Đây là trường hợp miễn TNHS mới được bổ sung trong BLHS năm 2015 để đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử và đáp ứng yêu cầu đấu tranh, xử lý tội phạm, tiết kiệm chi phí tố tụng và hiện nay, pháp luật các nước cũng đã quy định trường hợp này.

g) Trường hợp có thể được miễn TNHS kèm theo điều kiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 đã quy định: “Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này:

– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

– Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án”.

Như vậy, nếu không thuộc trường hợp miễn TNHS quy định tại Điều 29 BLHS năm 2015, người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này. Điều 92 BLHS năm 2015 quy định cụ thể điều kiện áp dụng – Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn TNHS và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này.

3.2. Quy định trong Phần các tội phạm BLHS

Các trường hợp trong Phần chung BLHS mang tính chất chung – áp dụng đối với tất cả người phạm tội (và người chưa thành niên dưới 18 tuổi phạm tội), nếu đáp ứng những điều kiện do luật định. Giá trị pháp lý và phạm vi áp dụng của những trường hợp miễn TNHS này rộng và bao trùm trong toàn bộ BLHS. Trong khi đó, các trường hợp miễn TNHS trong Phần các tội phạm mang tính chất đặc thù – áp dụng đối với người phạm một số tội phạm cụ thể tương ứng trong BLHS (mặc dù qua khảo sát thực tiễn xét xử cho thấy rất ít áp dụng đối với các tội phạm này). Ngoài ra, các nhà làm luật cũng chia những trường hợp miễn TNHS thành hai loại – có tính chất bắt buộc hoặc có tính chất lựa chọn. Đáng lưu ý, Phần các tội phạm BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm một trường hợp có thể được miễn đối với người phạm tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247). Trên cơ sở này, các trường hợp miễn TNHS trong Phần các tội phạm BLHS năm 2015 bao gồm:

a) Trường hợp đương nhiên được miễn TNHS – đối với người phạm tội gián điệp (Điều 110 BLHS năm 2015). Cụ thể, người nào đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn TNHS về tội phạm này.

b) Trường hợp có thể được miễn TNHS – đối với người phạm tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (khoản 4 Điều 247 BLHS năm 2015). Theo đó, người nào phạm tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy theo khoản 1 Điều 247, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn TNHS.

c) Trường hợp có thể được miễn TNHS – đối với người phạm tội đưa hối lộ (đoạn 2 khoản 7 Điều 364 BLHS năm 2015). Cụ thể, người nào đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn TNHS và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.

d) Trường hợp có thể được miễn TNHS – đối với người phạm tội môi giới hối lộ (khoản 6 Điều 365 BLHS năm 2015). Tương tự, người nào môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn TNHS.

đ) Trường hợp có thể được miễn TNHS – đối với người phạm tội không tố giác tội phạm (khoản 2 Điều 390 BLHS năm 2015). Theo đó, người nào không tố giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon