Thủ tục tuyên bố một người là đã chết

thu-tuc-tuyen-bo-mot-nguoi-la-da-chet

Khi một người biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ xã hội mà họ đã tham gia, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến họ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại… Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến người biệt tích trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định các chủ thể này có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết. Do việc yêu cầu tuyên bố một người là đã chết có liên quan đến số phận cũng như những vấn đề pháp lý khác rất phức tạp nên việc giải quyết yêu cầu tuyên bố chết phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố chết.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015;

– Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

1. Tuyên bố chết là gì?

Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm “Tuyên bố chết” là gì. Tuy nhiên, khái niệm này có thể được hiểu như sau: Tuyên bố chết là nội dung được thể hiện trong quyết định tuyên bố một người là đã chết của Tòa án nhằm xác định ngày chết của người đó và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết khi có đủ các căn cứ luật định. Việc tuyên bố một người là đã chết phải tuân thủ theo những điều kiện luật định.

Điều kiện để tuyên bố cá nhân là đã chết:

– Thứ nhất, đã quá thời hạn nhất định mà cá nhân đó vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.

Về cơ bản, điều kiện tuyên bố một người là đã chết là người đó đã bị Tòa tuyên mất tích từ 03 năm trở lên. Ngoài ra còn có thêm các trường hợp khác tương ứng với các điều kiện tuyên bố chết với trường hợp đó.

Theo đó, người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu tòa án tuyên bố một người là đã chết với các điều kiện tương ứng với các trường hợp theo quy định tại Điều 71 BLDS sau đây:

+ Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống. Trong trường hợp này, việc tạm dừng năng lực chủ thể của cá nhân sẽ được giải quyết theo hướng chấm dứt tư cách chủ thể của người đó. Lúc này Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người đó đã chết mà không cần đòi hỏi thêm thủ tục thông báo nào cả.

+ Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống.

Ngày chiến tranh kết thúc có thể có nhiều quy định khác nhau như ngày chiến thắng, ngày tuyên bố chấm dứt chiến tranh, ngày ký hiệp định đình chiến, hiệp định hòa bình hoặc ngày tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tránh… Tùy theo hoàn cảnh của các cuộc chiến tranh mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ quyết định. 

+ Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Các tai nạn, thảm họa có thể là động đất, núi lửa, sóng thần; hành khách trong các tai nạn giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không; người trong hầm, lò, mỏ bị sập hoặc hư hỏng.

+ Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó, nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.

– Thứ hai, phải thông qua thủ tục thông báo tìm kiếm.

Điều kiện này không được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, tuy nhiên xuất phát từ điều kiện tuyên bố một người mất tích thì việc thông báo tìm kiếm đối với người có khả năng được tuyên bố đã chết là hoàn toàn hợp lí, việc thông báo tìm kiếm với mục đích nhằm xác định lại lần cuối cùng về tin tức còn sống của một người trước khi tòa án quyết định về thận phận pháp lú của họ.

– Thứ ba, phải có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.

Đây là những cá nhân có sự ràng buộc trong mối quan hệ nào đó như hôn nhân gia đình, hành chính, lao động,…với người mà sự vắng mặt của người đó làm ảnh hưởng tới quyền lợi của họ. Ví dụ như vợ yêu cầu tòa án tuyên bố chồng đã chết để thực hiện các thủ tục pháp lý về thừa kế.

Khi một người thuộc một trong các trường hợp trên đây thì tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố chết và xác định ngày chết của người bị tuyên bố chết. Việc xác định ngày chết được quy định tại Khoản 2, Điều 71 Bộ luật dân sự, theo đó: “Căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết”. Theo quy định này, thì ngày chết của người bị tuyên bố đã chết được xác định khá linh hoạt, phụ thuộc vào sự kiện thực tế xảy ra và thời hạn tuyên bố một một người đã chết để quyết định. Trong trường hợp không xác định được thì ngày quyết định tuyên bố một người đã chết có hiệu lực được xác định là ngày chết của người tuyên bố đã chết.
Tòa án sẻ gửi quyết định tuyên bố một người là đã chết cho Ủy ban nhân dân cấp xã/phường nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

2. Thủ tục để tuyên bố một người đã chết

2.1. Người có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết

Theo khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự, người có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người đã chết là người có quyền, lợi ích liên quan đến người đó. Đây cũng là quy định nêu tại khoản 1 Điều 391 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Theo đó, có thể kể đến một số đối tượng được quyền yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người đã chết như sau:

– Người có quan hệ hôn nhân, gia đình với người bị tuyên bố chết: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi…

– Người có quan hệ thừa kế với người bị tuyên bố chết: Người cùng hàng thừa kế của người này, người thừa kế của người bị tuyên bố chết…

2.2. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người là chết

– Theo điểm a khoản 2 Điều 35 và điểm b khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Toà án nhân dân cấp huyện nơi người bị tuyên bố đã chết cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố chết.

Ngoài ra, theo điểm a khoản 2 Điều 40 Bộ luật này, người yêu cầu còn có quyền chọn Toà án cấp huyện nơi mình cư trú, làm việc để giải quyết.

2.3. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố chết

Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ gồm các giấy tờ sau:

– Đơn yêu cầu (theo mẫu).

– Tài liệu, chứng cứ chứng minh người này đã chết theo các trường hợp nêu trên: Bị biệt tích, đã bị tuyên bố mất tích trước đó, gặp thảm hoạ, thiên tai…

– Giấy tờ nhân thân chứng minh bản thân là người có quyền yêu cầu Toà án ra quyết định: Chứng minh nhân dân hoặc Căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn hạn, các giấy tờ chứng minh quyền, nghĩa vụ liên quan giữa người yêu cầu và người bị yêu cầu tuyên bố đã chết (bản sao).

Bước 2. Nộp hồ sơ và thụ lý đơn của Tòa án

Sau khi người yêu cầu gửi đơn; tài liệu kèm theo đến Tòa án sẽ thực hiện thủ tục nhận và xử lý đơn.

Trường hợp người yêu cầu nộp đơn trực tiếp tại Tòa án thì Tòa án ghi ngày , tháng năm vào sổ nhận đơn; cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn cho người yêu cầu.

Trường hợp người yêu cầu gửi đơn qua bưu điện , thì Tòa án ghi ngày, tháng năm người yêu cầu gửi đơn theo dấu bưu điện. Trường hợp không xác định được ngày, tháng năm gửi theo dấu bưu điện thì ngày yêu cầu là ngày Tòa án nhận được đơn do bưu điện chuyển đến; Tòa án phải ra thông báo đã nhận được đơn cho người yêu cầu trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn.

Trường hợp người yêu cầu gửi đơn bằng phương thức gửi trực tuyến; thì Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn; thông báo ngay việc nhận đơn cho người yêu cầu qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).

Khi nhận được đơn yêu cầu trong thời hạn 03 ngày làm việc , Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán giải quyết đơn yêu cầu Thẩm phán phải kiểm tra đơn yêu cầu về nội dung theo khoản 2 Điều 362 BLTTDS. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 362 của BLTTDS thì:

Thẩm phán yêu cầu người yêu cầu sửa đổi; bổ sung trong thời hạn 07 ngày; Tòa án sẽ tiếp tục việc thụ lý đơn yêu cầu nếu người yêu cầu đã sửa đổi; bổ sung.

Nếu người yêu cầu không sửa đổi; bổ sung đơn yêu cầu thì Tòa án sẽ trả lại đơn yêu cầu; tài liệu chứng cứ kèm theo cho người yêu cầu Theo quy định.

Bước 3: Ra thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố đã chết.

Khi đã nộp đủ các tài liệu; chứng cứ cần thiết; Tòa án sẽ ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết.

Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố đã chết là 04 tháng; được tính từ ngày đăng và phát thông báo đầu tiên.

Bước 4: Tòa án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết.

Trong thời hạn thông báo, nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu; người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết trở về và thông báo cho Tòa án biết thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn thông báo thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu.

Sau thời gian thông báo tìm kiếm; mà không có bất kì một thông tin nào của người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết thì Tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố cá nhân đó là đã chết theo quy định tại Điều 393 Bộ luật tố tụng dân sự. 

Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về thủ tục tuyên bố một người là đã chết. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon