Các loại trách nhiệm dân sự

cac-loai-trach-nhiem-dan-su

Quan hệ dân sự là một trong những mối quan hệ phức tạp, thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn. Xuất phát từ những giao dịch dân sự mỗi cá nhân đều mang trong mình trách nhiệm gắn liền với nghĩa vụ. Theo đó trách nhiệm dân sự là sự ràng buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức trong quan hệ dân sự, là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự, trách nhiệm dân sự bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích về các loại trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự hiện hành.

Căn cứ pháp lý:

– Bộ luật dân sự năm 2015.

1. Trách nhiệm dân sự là gì?

Trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý bất lợi, áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật dân sự để buộc chủ thể này phải khắc phục những tổn thất đã gây ra. Trách nhiệm dân sự mang những đặc điểm sau:

– Thứ nhất, căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự phải là hành vi vi phạm pháp luật dân sự. Đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự;

– Thứ hai, trách nhiệm dân sự là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự mục đích mà các bên hướng đến là lợi ích. Chính vì vậy, lợi ích mà các bên hướng tới sẽ mang tính tìa sản và đó là trách nhiệm bù đắp cho bên bị vi phạm một lợi ích nhất định từ bên vi phạm.

– Thứ ba, trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của bên vi phạm trước bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm

– Thứ tư, chủ thể chịu trách nhiệm dân sự ngoài người vi phạm nghĩa vụ còn có thể là những chủ thể khác như: Pháp nhân, cơ quan, tổ chức, người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành niên…

– Thứ năm, hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu có thể là việc phải thực hiện nghĩa vụ, thực hiện đúng và thực hiện đủ nghĩa vụ và nếu có thiệt hại thực tế từ vi phạm đó thì sẽ phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

– Thứ sáu, trách nhiệm dân sự nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.

2. Các loại trách nhiệm dân sự

2.1. Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật

Điều 356. Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật

“1. Trường hợp nghĩa vụ giao vật đặc định không được thực hiện thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật.

2. Trường hợp nghĩa vụ giao vật cùng loại không được thực hiện thì bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao vật cùng loại khác; nếu không có vật cùng loại khác thay thế thì phải thanh toán giá trị của vật.

3. Trường hợp việc vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gây thiệt hại cho bên bị vi phạm thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại”.

Vật trong quan hệ nghĩa vụ bao gồm vật đặc định và vật cùng loại. Mỗi loại đều có những đặc tính riêng, do đó quy định của pháp luật về trách nhiệm của bên mang nghĩa vụ khi vi phạm nghĩa vụ đối với mỗi loại cũng khác nhau, cụ thể:

– Vật đặc định: Có thể thấy, vật đặc định là vật có đặc điểm riêng biệt, có thể dễ dàng phân biệt với vật khác. Với tính chất đó, khi giao vật đặc định bên có nghĩa vụ chỉ được xem là đã hoàn thành nghĩa vụ khi giao đúng vật đó. Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bị xem là vi phạm nghĩa vụ, và phải chịu trách nhiệm dân sự.

Trách nhiệm dân sự mà bên có nghĩa vụ phải gánh chịu là tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc bồi thường thiệt hại. Nếu tài sản vẫn còn thì bên có nghĩa vụ phải thực hiện giao trả lại vật đó cho bên có quyền. Nhưng trong trường trường hợp, tài sản đã mất hoặc không còn thì bên có nghĩa vụ phải thanh toán giá trị của vật.

– Vật cùng loại: Vật cùng loại là vật có thể thay thế được cho nhau, khi không thể giao vật này, thì bên có nghĩa vụ có thể thay thế bằng vật khác có cùng chất lượng, số lượng. Bởi chủ thể có quyền chỉ quan tâm đến chất lượng, số lượng, chủng loại vật. khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ phải bàn giao tài sản cho bên có quyền.

Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, mà bên có nghĩa vụ đã không thực hiện nghĩa vụ của mình. Hành vi vi phạm của bên bên có nghĩa vụ gây ảnh hưởng đến lợi ích của bên có quyền, do đó, bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự. Trong nghĩa vụ giao vật cùng loại, bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ có thể giao vật khác cùng loại với vật đã thỏa thuận ban đầu, mà không cần giao đúng vật đó như đối với vật đặc định. Trong trường hợp, bên có nghĩa vụ không có vật cùng loại thay thế thì phải thanh toán giá trị của vật cho bên có quyền. Bên cạnh đó, bên có nghĩa vụ còn phải bồi thường thiệt hại nếu gây thiệt hại cho bên có quyền.

2.2. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền

Điều 357. Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền

1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”.

Điều 353 BLDS năm 2015 quy định chậm thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ chưa được thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết. TIền là một đối tượng của quan hệ nghĩa vụ, theo đó, bên có nghĩa vụ phải trả cho bên có quyền một khoản tiền nhất định khi đến thời hạn mà các bên đã thỏa thuận từ trước.

Nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không trả tiền thì sẽ phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Như vậy, ngoài việc phải trả khoản tiền thuộc về nghĩa vụ chính như tiền vay, tiền mua hàng hóa, tiền dịch vụ,…gọi chung là nợ gốc thì bên có nghĩa vụ còn phải thanh toán thêm một khoản tiền lãi tính trên giá trị của khoản tiền chậm trả đó. Khoản lãi này xuất phát từ trách nhiệm bồi thường cho những tổn thất xảy ra do chậm trả tiền. 

2.3. Trách nhiệm do không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc

Điều 358. Trách nhiệm do không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc

1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường thiệt hại.

2. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại”.

Mỗi loại công việc đều có đặc tính riêng, do đó, pháp luật đã phân loại trách nhiệm do không thực hiện công việc và trách nhiệm do không được thực hiện một công việc, cụ thể:

– Công việc phải thực hiện: Khi vi phạm nghĩa vụ bên vi phạm sẽ phải tiếp tục thực hiện công việc theo yêu cầu của bên có quyền bằng cách tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện. Quy định như vậy nhằm linh hoạt cho bên có nghĩa vụ trong trường hợp không thể tự mình thực hiện công việc, mà vẫn đáp ứng lợi ích cho bên có quyền.

Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn đi kèm với hành vi vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Thông thường, có hành vi vi phạm thì sẽ có thiệt hại xảy ra, mà theo nguyên tắc chung, bên vi phạm mà gây thiệt hại cho bên còn lại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và các chi phí hợp lý. 

– Công việc không được thực hiện: Việc bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc nhằm đáp ứng cho lợi ích của bên có quyền, tương tự, nếu bên có nghĩa vụ thực hiện công việc đó thì sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bên có quyền.

Do đó, nếu quan hệ nghĩa  vụ có đối tượng là công việc không phải thực hiện, mà bên có nghĩa vụ vẫn thực hiện thì bị xem là vi phạm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm mà bên có nghĩa vụ phải chịu là dừng ngay công việc đang thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại xảy ra khi bên có quyền yêu cầu.

2.4. Trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ

Điều 359. Trách nhiệm do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ

”Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ làm phát sinh thiệt hại cho bên có nghĩa vụ thì phải bồi thường thiệt hại cho bên đó và phải chịu mọi rủi ro, chi phí phát sinh kể từ thời điểm chậm tiếp nhận, trừ trường hợp luật có quy định khác.”

Khi xác lập giao dịch dân sự, các bên thỏa thuận về thời hạn thực hiện và tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ. Khi đến thời hạn theo thỏa thuận, bên nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của mình, bên có quyền thì có nghĩa vụ tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó có của bên có nghĩa  vụ. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, mà bên có quyền không thể tiếp nhận nghĩa vụ đúng hạn, vì vậy, họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Căn cứ vào quy định trên, bên có quyền phải chịu những trách nhiệm sau đây:

– Bồi thường thiệt hại: là một loại trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với bên vi phạm mà gây thiệt hại cho bên còn lại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có thiệt hại thực tế xảy ra, và nguyên nhân dẫn đến thiệt hại đó là do hành vi chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ gây ra. 

– Phải chịu rủi ro: là hậu quả bất lợi mà bên chậm tiếp nhận phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra đối với tài sản vì một lý do khách quan nào đó. Chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ có thể dẫn đến rủi ro cho chính đối tượng của nghĩa vụ, vì vậy, bên có quyền sẽ phải gánh chịu những rủi ro có thể xảy ra. Thông thường, chỉ chủ sở hữu của tài sản mới phải chịu rủi ro về tài sản đó. Tuy nhiên, trong trường hợp này bên có quyền chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ, đó là xuất phát từ lỗi của bên có quyền, vì vậy theo quy định của pháp luật họ phải gánh chịu rủi ro đó.

– Phải thanh toán các chi phí phát sinh: Thực chất trách nhiệm thanh toán các chi phí phát sinh này cũng là một phần của bồi trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bởi, trác nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ đặt ra đối với các thiệt hại trực tiếp từ hành vi gây thiệt hại mà còn bao gồm các thiệt hại gián tiếp đó chính là các chi phí khắc phục thiệt hại

2.5. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ

Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ

Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

Bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý được áp dụng chủ yếu trong dân sự vì trong lĩnh vực dân sự, quan hệ tài sản là quan hệ phổ biến và trách  nhiệm về tài sản cũng là trách nhiệm chủ yếu. Khi lợi ích vật chất của một bên bị vi phạm, thì việc khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại là biện pháp tốt nhất nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các bên. Căn cứ vào quy định trên, trách nhiệm bồi thường bao gồm toàn bộ thiệt hại, bao gồm cả thiệt hại trong và ngoài hợp đồng. Theo nguyên tắc chung, thiệt hại bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu. 

Về cơ bản, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm bảo vệ lợi ích của bên có quyền, do đó, bên có quyền có thể đồng ý hay không việc bồi thường đó. Pháp luật tôn trong tự do ý chí thỏa thuận của các bên, mà mọi giao dịch đều hình thành dựa trên thỏa thuận của các bên. Vì vậy, các bên có thể thỏa thuận bồi thường thấp hơn, hoặc cao hơn toàn bộ thiệt hại xảy ra và được pháp luật bảo vệ. 

Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về các loại trách nhiệm dân sự. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon