Các chủ thể không có pháp nhân

cac-chu-the-khong-co-phap-nhan

Các chủ thể không có pháp nhân thường được định nghĩa là các tổ chức hoặc thực thể không được công nhận bởi pháp luật để có quyền và trách nhiệm pháp lý như các tổ chức có pháp nhân. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ phân tích rõ hơn về các chủ thể không có pháp nhân.

Căn cứ pháp lý:

Bộ Luật Dân sự năm 2015;

Luật Doanh nghiệp năm 2020.

1. Pháp nhân là gì?

1.1. Khái niệm

Pháp nhân là một tổ chức được thành lập hợp pháp hoặc được pháp luật thừa nhận khi đáp ứng được các điều kiện mà pháp luật quy định, pháp nhân là một loại chủ thể thường xuyên và cơ bản của tư pháp quốc tế, các pháp nhân tham gia quan hệ tư pháp quốc tế có thể là pháp nhân Việt Nam và cả pháp nhân nước ngoài.

Pháp luật Việt Nam và kể cả trên thế giới cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất định nghĩa về pháp nhân. Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định quy định pháp nhân như sau:

Thứ nhất, được thành lập một cách hợp pháp. Pháp nhân có thể được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp. Do đó, tổ chức thành lập không hợp pháp thì không được coi là pháp nhân, tổ chức đó được công nhận là có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận thành lập. Ngoài ra, không phải doanh nghiệp nào cũng là pháp nhân ví dụ như doanh nghiệp tư nhân vì nó chưa hội đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Thứ hai, có cơ quan điều hành, cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Pháp nhân phải có điều lệ hoạt động rõ ràng. Điều lệ của pháp nhân do các sáng lập viên xây dựng, nếu pháp nhân được thành lập theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì điều lệ do cơ quan nhà nước đã thành lập chuẩn y. Pháp nhân phải có cơ quan điều hành bao gồm các bộ phận, phòng ban được phân chia cụ thể, phân công chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ ràng trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập.

Thứ ba, Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và từ chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Pháp nhân phải sở hữu một lượng tài sản nhất định để sử dụng trong các giao dịhc và hoàn toàn chịu trách nhiệm với các tài sản đó. Pháp nhân phải có toàn quyền sử dụng tài sản này mà không chịu sự chi phối hay kiểm soát bởi bất kỳ ai.Tài sản đó phải hoàn toàn tách biệt với tài sản của các cá nhân là thành viên nên các thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp vào tổ chức. Đây là sự khác biệt rất lớn để phân biệt giữa pháp nhân với cá nhân.

Thứ tư, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân là một chủ thể độc lập của quan hệ pháp luật dân sự, do . Xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự hay các quan hệ khác khi pháp nhân nhân danh chính mình mà không phải nhận danh bất kỳ 1 cá nhân hay pháp nhân nào khác. Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định nhi hợp với điều lệ của pháp nhân. Đồng thời, trong quan hệ tố tụng, pháp nhân có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn trước Toà án.

1.2. Phân loại pháp nhân

Căn cứ vào mục tiêu hoạt động, có thể chia pháp nhân thành hai loại:

– Pháp nhân thương mại: là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.

– Pháp nhân phi thương mại: là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận, nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên.

Trong tham gia quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, pháp nhân phi thương mại chiếm đa số và có nhiều vấn đề pháp lý phát sinh từ chủ thể này, khá phức tạp và nhiều khó khăn, vướng mắc.

2. Điều kiện để thành pháp nhân?

Như vậy, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi thoả mãn 4 điều kiện sau đây:

– Được thành lập theo quy định của bộ luật dân sự hoặc là luật khác có liên quan.

– Phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ: Pháp nhân phải có cơ quan điều hành bao gồm các bộ phận, phòng ban được phân chia cụ thể, phân công chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận, phòng ban được quy định rõ ràng trong điều lệ hoặc trong quyết định thành lập.

– Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó: Pháp nhân phải sở hữu một lượng tài sản nhất định để sử dụng trong các giao dịch và hoàn toàn chịu trách nhiệm với các tài sản đó.

– Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.

Ví dụ về pháp nhân: Công ty TNHH, Công ty cổ phần là những tổ chức doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.

3. Các chủ thể không có pháp nhân

Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, hiện nay có 05 loại hình doanh nghiệp bao gồm:

– Công ty TNHH 2 thành viên trở lên;

– Công ty TNHH 1 thành viên;

– Công ty cổ phần;

– Công ty hợp danh;

– Doanh nghiệp tư nhân.

3.1. Đối với công ty TNHH 2 thành viên, công ty TNHH 1 thành viên, công ty cổ phần

Các loại hình doanh nghiệp này đều đáp ứng cả 04 điều kiện tại Điều 74 Bộ Luật Dân sự 2015 nên đương nhiên có tư cách pháp nhân.

3.2. Đối với công ty hợp danh

Theo khoản 1 Điều 177 Luật Doanh nghiệp 2020, công ty hợp danh phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn, trong đó:

– Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;

– Thành viên góp vốn là tổ chức, cá nhân và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty.

Mặc dù thành viên hợp danh không có tài sản độc lập với cá nhân nhưng công ty hợp danh lại tồn tại có thành viên góp vốn, đây là những thành viên có tài sản độc lập với công ty. Vì vậy, công ty hợp danh là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân.

3.3. Đối với doanh nghiệp tư nhân

Theo khoản 1 Điều 188 Luật Doanh nghiệp 2020, doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Việc quy định doanh nghiệp tư nhân phải tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình khiến cho tài sản của doanh nghiệp không còn độc lập với tài sản của cá nhân. Trường hợp doanh nghiệp phá sản, chủ doanh nghiệp tư nhân phải dùng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho doanh nghiệp.

Trong các loại hình doanh nghiệp trên, chỉ có duy nhất doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp nhưng không có tư cách pháp nhân.

3.4. Chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân không có tư cách pháp nhân

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 44 Luật Doanh nghiệp 2020, chi nhánh và văn phòng đại diện được định nghĩa như sau:

– Chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp, bao gồm cả chức năng đại diện theo ủy quyền.

– Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ đại diện theo ủy quyền cho lợi ích của doanh nghiệp và bảo vệ các lợi ích đó. Văn phòng đại diện không thực hiện chức năng kinh doanh của doanh nghiệp.

Chi nhánh và văn phòng đại diện đều là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, mọi hoạt động của chi nhánh đều phụ thuộc vào doanh nghiệp và thông qua việc uỷ quyền. Do đó, chi nhánh và văn phòng đại diện không tham gia các quan hệ pháp luật với tư cách độc lập nên không được coi là có tư cách pháp nhân.

3.5. Hộ kinh doanh có tư cách pháp nhân không?

Dựa vào những quy định được phân tích như trên, có thể thấy rằng hộ kinh doanh không đáp ứng đủ những điều kiện trên, do vậy, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân, không có con dấu riêng, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện và không được thực hiện các quyền mà các doanh nghiệp đang thực hiện.

Một lưu ý rằng hộ kinh doanh khi sử dụng 10 lao động trở lên phải chuyển sang đăng ký thành lập doanh nghiệp.

Theo quy định tại khoản 10 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14 có hiệu lực năm 2021 quy định như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.”

Như vậy, mặc dù hộ kinh doanh là tổ chức có tên riêng, có tài sản và chủ thể kinh doanh khá chuyên nghiệp đi nữa thì theo quy định của pháp luật hộ kinh doanh không phải là doanh nghiệp.

Bởi lẽ, hộ kinh doanh hoạt động mang tính chất riêng lẻ, không thường xuyên, chuyên nghiệp, không có con dấu, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện và đặt biệt không được thực hiện các quyền mà doanh nghiệp đang có như hoạt động xuất nhập khẩu hay áp dụng Luật phá sản khi kinh doanh thua lỗ.

Như vậy, doanh nghiệp tư nhân và chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp khác và hộ kinh doanh là những tổ chức không có tư cách pháp nhân.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon