Hiện nay, các tội xâm phạm sở hữu luôn là vấn đề nhức nhối, xảy ra với nhiều tình tiết phức tạp, gây ra hậu quả và tác hại lớn cho xã hội. Trong các tội phạm xâm phạm sở hữu, cướp tài sản với cưỡng đoạt tài sản là một trong những hành vi có tính nguy hiểm cao cho xã hội với diễn biến ngày càng phức tạp về hình thức, thủ đoạn và mức độ hậu quả xảy ra, gây tâm lý hoang mang trong dư luận, gây ảnh hưởng rất lớn tới trật tự an toàn xã hội. Người phạm tội cướp tài sản và cưỡng đoạt tài sản thường là những đối tượng côn đồ, hung hãn, coi thường pháp luật và đạo đức xã hội. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân biệt về tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
1. Tội cướp tài sản
* Mặt chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội cướp tài sản là người từ đủ 14 tuổi trở lên.
* Mặt khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội cướp tài sản là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân mà cụ thể hơn đó là quyền sở hữu về tài sản và quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Đối tượng tác động của tội cướp tài sản là tài sản, trừ những loại tài sản có tính chất và công dụng đặc biệt đã được quy định là đối tượng tác động của các tội phạm khác như ma túy, vũ khí quân dụng,…
* Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội cướp tài sản được thể hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn được mô tả trong điều luật: Dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể:
– Hành vi dùng vũ lực: Hành vi này được hiểu là dùng sức mạnh vật chất để chủ động tấn công người quản lý tài sản hoặc người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành động tấn công này có thể khiến nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại sức khỏe hoặc tử vong nhưng cũng có thể chưa gây ra thương tích gì.
– Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Đây là hành vi dùng lời nói, hoặc hành động nhằm đe dọa nạn nhân nếu không đưa tài sản thì hành động vũ lực sẽ được thực hiện ngay. Đe dọa dùng ngay tức khắc thông thường được kết hợp những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo tạo cảm giác cho người bị tấn công sợ và tin rằng người phạm tội sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu không giao tài sản.
Ngay tức khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yếu nếu người bị hại không giao tài sản cho người phạm tội. Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, cũng có nghĩa là nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Lưu ý: Đe dọa dùng vũ lực là chưa dùng vũ lực, nếu người phạm tội vừa đe dọa, vừa sử dụng vũ lực với người bị hại thì vẫn bị coi là dùng vũ lực.
– Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được: Đây là hành vi không dùng vũ lực, không đe dọa sử dụng vũ lực nhưng làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được (ví dụ như đánh thuốc mê người bị hại, khiến người bị hại không thể chống cự được và sau đó cướp tài sản).
Tội phạm này hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được, kể cả người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản.
* Mặt chủ quan tội phạm:
Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Bởi người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác chiếm đoạt và mong muốn chiếm đoạt tài sản đó.
Mục đích: nhằm chiếm đoạt tài sản, đây là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
2. Tội cưỡng đoạt tài sản
* Mặt khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân mà cụ thể hơn đó là quyền sở hữu về tài sản và quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Đối tượng tác động của tôi cưỡng đoạt tài sản là tài sản, trừ những loại tài sản có tính chất và công dụng đặc biệt đã được quy định là đối tượng tác động của các tội phạm khác như ma túy, vũ khí quân dụng,…
* Mặt khách quan của tội phạm:
– Hành vi khách quan:
Khoản 1 Điều 170 BLHS năm 2015 quy định: Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Như vậy, tội cưỡng đoạt tài sản được thể hiện được thể hiện ở hai dạng cụ thể: một là đe dọa sẽ dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản; hai là thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản.
+ Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi dọa sẽ sử dụng sức mạnh vật chất (hay sẽ thực hiện hành động) gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nếu không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Hành vi đe dọa có thể được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành động…
Về tính chất của hành vi đe dọa, khác với dạng hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc của tội cướp tài sản, ở tội cưỡng đoạt tài sản hành vi đe dọa không có yếu tố “ngay tức khắc”, nói cách khác giữa hành vi đe dọa và hành vi dùng vũ lực có một khoảng cách nhất định, bản thân hành vi đe dọa cũng không thể hiện sự mãnh liệt, cũng không làm tê liệt khả năng chống cự mà chỉ khống chế ý chí của bị hại.
+ Thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản được hiểu là dùng các thủ đoạn gây áp lực rất lớn về tinh thần, khống chế ý chí của người bị hại để buộc họ phải giao tài sản. Các thủ đoạn thường sử dụng là đe dọa hủy hoại tài sản riêng của nạn nhân, dọa tố giác hành vi phạm pháp hoặc hành vi vi phạm đạo đức, dọa loan những tin thuộc về đời tư (mà người bị đe dọa muốn giữ kín),… Thủ đoạn đe dọa được thực hiện bằng mọi hình thức: dọa sẽ nói, gọi điện phát tờ rơi, nhắn tin, đăng báo, đăng bài viết lên mạng xã hội,… tác động đến đối tượng bị đe dọa với mục đích gây áp lực rất lớn về tinh thần cho người bị đe doạ, buộc họ phải giao tài sản cho người phạm tội.
– Hậu quả:
Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành hình thức. Tội phạm hoàn thành khi hành vi khách quan trên được thực hiện mà không phụ thuộc vào việc hậu quả của tội phạm đã xảy ra hay chưa. Hậu quả trong Tội cưỡng đoạt tài sản không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, mà chỉ có ý nghĩa trong việc xem xét trách nhiệm hình sự trong các khung tăng nặng và quyết định hình phạt.
* Mặt chủ thể của tội phạm:
Người phạm tội cưỡng đoạt tài sản là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
Đối chiếu Điều 12 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên khi thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự theo tất cả các khoản quy định tại Điều 170 BLHS năm 2015. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 170 BLHS.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi đe dọa hoặc hành vi uy hiếp tinh thần của mình nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm đoạt một cách bất hợp pháp và mong muốn thực hiện bằng được các hành vi đó.
Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của Tội cưỡng đoạt tài sản. Động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội cưỡng đoạt tài sản.
3. Phân biệt tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản
Tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản đều là các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu, giữa hai tội phạm này có sự khác nhau chủ yếu ở mặt khách quan của tội phạm, cụ thể:
Tội cướp tài sản | Tội cưỡng đoạt tài sản | |
Hành vi khách quan | Các hành vi khách quan của Tội cướp tài sản đều là những hành vi có tính chất làm đè bẹp ý chí, sự kháng cự của nạn nhân nhằm chiếm đoạt tài sản, được thể hiện ở 03 dạng hành vi cụ thể:
Hành vi sử dụng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản, hành vi đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. |
Hành vi khách quan của Tội cưỡng đoạt tài sản chỉ có tính chất khống chế tư tưởng, uy hiếp tinh thần, đặt nạn nhân vào tình thế buộc phải cân nhắc, lựa chọn và buộc phải miễn cưỡng giao tài sản cho người phạm tội. Các hành vi đó là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc hành vi có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Vì vậy, Tội cưỡng đoạt tài sản không có tính chất nguy hiểm bằng Tội cướp tài sản. |
Hành vi dùng vũ lực | Là hành vi dùng sức mạnh vật chất gây thiệt hại đến tính mạng hoặc sức khỏe của người khác nhằm chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội có thể dùng sức mạnh thể chất (là sức mạnh cơ học của chính người phạm tội như tay, chân..) hoặc sức mạnh vật chất (sử dụng công cụ phương tiện phạm tội: dao, gậy…) tác động đến người chủ sở hữu tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản hoặc bất kỳ người nào cản trở việc chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Việc sử dụng vũ lực này phải làm cho người đó không thể kháng cự lại hoặc làm tê liệt ý chí kháng cự, khả năng kháng cự của người họ. | Trong Tội cưỡng đoạt tài sản không có hành vi “dùng vũ lực” |
Hành vi đe doạ dùng vũ lực | Hành vi đe doạ dùng vũ lực trong Tội cướp tài sản là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Hành vi này được hiểu là sẽ dùng ngay lập tức, tại chỗ, sức mạnh vật chất với ý thức làm cho người bị đe dọa có căn cứ để lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện ngay nếu không để cho người phạm tội chiếm đoạt tài sản, làm cho người bị đe dọa thấy rằng nguy hiểm sẽ xảy ra ngay và họ không thể tránh được nếu không giao tài sản. | Khác với hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc trong Tội cướp tài sản, việc đe dọa trong Tội cưỡng đoạt tài sản không mang tính mãnh liệt và tức thời, người bị hại (người chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản) hoàn toàn có điều kiện chuẩn bị để đối phó và chưa đến mức làm tê liệt ý chí kháng cự của họ, mà chỉ hạn chế ở chỗ làm cho họ lo sợ ở mức độ nhất định, đồng thời họ vẫn có thời gian để lựa chọn giữa việc kháng cự hay chấp nhận giao tài sản.
Đe dọa sẽ dùng vũ lực trong tội này có tính chất nhẹ hơn, người bị đe dọa cảm nhận được giữa hành vi đe dọa và việc dùng vũ lực có khoảng cách về thời gian. |
Hành vi khác | Đối với Tội cướp tài sản, người phạm tội có hành vi khác sẽ làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, Người phạm tội có thể thực hiện thông qua lời nói, cử chỉ hoặc hành động (ví dụ cho uống thuốc mê, dùng vũ khí giả để uy hiếp, dùng kiêm tiêm mới mua ngoài hiệu thuốc nhưng lại nói dối là kim tiêm dính máu của người nhiễm HIV).
Như vậy hậu quả của hành vi này cũng sẽ làm cho nạn nhân tê liệt ý chí, mất khả năng tự vệ, khả năng chống cự. Việc dùng hành vi khác này cũng phải mãnh liệt, nạn nhân không có cơ hội quyết định được việc giao tài sản hay không giao tài sản cho người phạm tội. Hành vi này không tác động bằng sức mạnh vật chất của người phạm tội, mà dùng các thủ đoạn tinh vi để tác động vào thể chất, tinh thần của người bị hại. |
Đối với Tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi dùng thủ đoạn khác là để uy hiếp tinh thần của nạn nhân, và từ đó làm cho nạn nhân phải quyết định giao tài sản cho người phạm tội.
Hậu quả của hành vi dùng thủ đoạn khác này chỉ làm cho nạn nhân bị uy hiếp về mặt tinh thần, như làm cho nạn nhân mất bình tĩnh, lo lắng sợ hãi, nhưng vẫn có khả năng nhận thức và lựa chọn được cách xử sự của mình trong việc quyết định giao hay không giao tài sản cho người phạm tội như doạ tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của nạn nhân, dọa tung tin về đời tư mà nạn nhân muốn giữ kín,… |
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về phân biệt tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.