Tội vu khống theo quy định của Bộ luật Hình sự

toi-vu-khong-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-hinh-su

Vu khống là một hành vi nghiêm trọng, thể hiện qua việc bịa đặt hoặc loan truyền những thông tin sai lệch nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác. Trong thời đại hiện nay, khi mạng xã hội phát triển, tội phạm này càng trở nên phổ biến và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Không chỉ gây tổn thương về tinh thần, vu khống còn có thể ảnh hưởng đến kinh tế, cuộc sống, công việc và các mối quan hệ của nạn nhân.

Vậy, tội vu khống được quy định như thế nào trong Bộ luật Hình sự? Hãy cùng Luật Dương Gia tìm hiểu qua bài viết dưới đây để có cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về vấn đề này.

Căn cứ pháp lý: 

  • Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017);
  • Nghị định 144/2021/ NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình;
  • Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử;
  • Nghị định 14/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử và Nghị định 199/2020/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản.

1. Vu khống là gì?

Vu khống, một hành vi nguy hiểm, không chỉ xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự và nhân phẩm của cá nhân mà còn gây ra những hậu quả tiêu cực cho xã hội. Chính vì vậy, pháp luật hình sự Việt Nam đã quy định rõ tội vu khống thuộc thuộc chương các tội phạm xâm mạng tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.

Cụ thể, theo Bộ luật Hình sự năm 2015, hành vi vu khống được hiểu là bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác

Một dạng đặc biệt của tội vu khống là hành vi bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ với cơ quan có thẩm quyền. Đối với dạng hành vi này, tính nguy hiểm cho xã hội của tội vu khống phụ thuộc nhiều vào loại tội bị vu khống.

Do vậy, Bộ luật hình sự đã quy định vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của tội vu khống.

2. Quy định của pháp luật về tội vu khống

Theo Điều 156 Bộ luật Hình sự quy định về tội vu khống như sau:

Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với 02 người trở lên;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%[77];

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Vì động cơ đê hèn;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên[78];

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

2.1 Mặt khách quan

– Có hành vi bịa đặt biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội đã tự đặt ra và loan truyền những điều không đúng với sự thật và có nội dung xuyên tạc sự thật, nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này có thể bằng lời nói trực tiếp, bằng tin nhắn đi động hoặc đưa thông tin lên các trang báo, mạng xã hội,…

Ví dụ: Trong buổi họp phụ huynh, một phụ huynh A đã bịa đặt thông tin về mối quan hệ tình cảm không chính thống giữa cô giáo với phụ huynh B trong lớp. Hoàn toàn là tin đồn thất thiệt, không có cơ sở thực tế, nhưng thông tin này đã nhanh chóng lan truyền và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh tiếng, tinh thần và cuộc sống của cô giáo, dẫn đến việc cô bị đình chỉ công việc.

– Có hành vi loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Hành vi này được thể hiện qua việc người phạm tội tuy không bịa đặt ra những điều không đúng sự thật về người khác và biết rõ điều đó là sai sự thật nhưng vẫn loan truyền điều bịa đặt đó bằng các hình thức như nói cho người khác biết, đưa thông tin lên các trang báo, mạng xã hội,…

– Có hành vi bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hành vi này thể hiện qua việc người phạm tội tự mình bịa đặt ra rằng người khác có hành vi thực hiện một tội phạm nào đó và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước, mặc cho người này không phải người thực hiện những hành vi phạm tội đó.

Tội phạm hoàn thành ngay từ khi những hành vi nói trên được thực hiện không phụ thuộc vào việc quyền lợi của nạn nhân đã bị xâm hại hay chưa.

2.2 Về khách thể

Là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền được tôn trọng và bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của con người. Đối tượng tác động là con người.

2.3 Mặt chủ quan

Người phạm tội vu khống luôn thực hiện hành vi phạm tội của mình với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.

2.4 Chủ thể

Chủ thể của tội phạm này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định.

3. Về hình phạt

Điều 156 BLHS năm 2015 quy định ba khung hình phạt tại các khoản 1, 2 và 3, cụ thể:

– Khung 1 (Khoản 1): Có mức hình phạt là phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội nêu ở mặt khách quan và chủ quan.

– Khung 2 (Khoản 2) : Quy định phạt tù từ 01 năm đến 03 năm, được áp dụng đối với các trường hợp sau đây: Có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Đối với 02 người trở lên; Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình; Đối với người đang thi hành công vụ; Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

-Khung 3 (Khoản 3): Quy định phạt tù từ 03 đến 07 năm, được áp dụng đối với các trường sau đây: Vì động cơ đê hèn; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Làm nạn nhân tự sát.

Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị:

  • Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng
  • Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

4. Mức xử phạt hành chính đối với hành vi vu khống

4.1 Mức phạt hành chính cho hành vi bôi nhọ danh dự, nhân phẩm người khác

Đối với trường hợp có hành vi vu khống, bịa đặt lăng mạ người khác vi phạm trật tự công cộng thì căn cứ theo Khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp sau đây:

  • Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm đối với người thi hành công vụ (điểm b khoản 2 Điều 21 Nghị định này);
  • Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình (Điều 54 Nghị định này).

Ngoài ra, người thực hiện hành vi vu khống, bịa đặt, lăng mạ còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Cụ thể, theo quy định Khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm danh dự của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.” Đồng thời có quyền yêu cầu bồi thường một khoản tiền để khắc phục tổn thất tinh thần. Mức bồi thường cụ thể sẽ do hai bên thỏa thuận, nếu không đạt được thỏa thuận thì sẽ được xác định theo quy định của pháp luật, không quá 10 tháng mức lương cơ sở.

Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 34 Bộ luật Dân sự 2015 người bị vu khống, bịa đặt lăng mạ còn có quyền yêu cầu người có hành vi vu khống, bịa đặt lăng mạ đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai.

4.2 Xử phạt hành chính đối với hành vi vu khống người khác trên MXH

Đối với trường hợp có hành vi vu khống, bịa đặt lăng mạ người khác trên mạng xã hội bị xử phạt theo quy định tại Khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP và Nghị định 14/2022/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP như sau:

Điều 101. Vi phạm các quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội; trang thông tin điện tử được thiết lập thông qua mạng xã hội

  1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện một trong các hành vi:

  1. b) Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân;

…”

Như vậy, hành vi vu khống người khác trên mạng xã hội có thể bị xử phạt hành chính với mức tiền phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Bên cạnh đó, người vi phạm còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc phải gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm nêu trên.

5. Một số điểm cần lưu ý về tội vu khống

– Đối tượng bị vu khống của tội này không phải là pháp nhân hay một nhóm người mà là con người cụ thể.

– Người phạm tội thuộc trường hợp quy định ở khoản 1 chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có yêu cầu khởi tố hình sự. Nếu người bị hại rút đơn khởi tố trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm phiên tòa bắt đầu, vụ án phải được đình chỉ.

– Thực tế có rất nhiều tin báo tố giác tội phạm do công dân, tổ chức cung cấp. Tuy nhiên, không phải thông tin tố giác nào cũng đúng sự thật. Khi điều tra cho thấy không có tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra sẽ ra quyết định không khởi tố.

– Có trường hợp đơn tố giác tội phạm đã được đưa vào tiến trình tố tụng hình sự, nhưng sau đó Cơ quan tiến hành tố tụng có quyết định đình chỉ vì không có tội – tức là sự tố giác tội phạm sai sự thật.

Trường hợp này không coi là có hành vi vu khống mà được xử lý theo Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự. Muốn xác định có hành vi vu khống hay không phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ vào lí do, mục đích khác nhau của việc cung cấp tin báo tố giác tội phạm.

Trên đây là bài viết của Luật Dương Gia về Tội vu khống  theo quy định của Bộ luật Hình sự . Mọi thắc mắc pháp lý, vui lòng liên hệ Tổng đài Luật sư 1900.6568 hoặc Hotline dịch vụ 093.154.8999 để được tư vấn và hỗ trợ.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon