Nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự năm 2015

nguyen-tac-co-ban-cua-bo-luat-dan-su-nam-2015

Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Bộ luật Dân sự sửa đổi (sau đây gọi là “BLDS năm 2015”). Bên cạnh những chế định như quyền sở hữu, các biện pháp bảo đảm, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng… được sửa đổi, bổ sung so với Bộ luật Dân sự (sau đây gọi là “BLDS”) năm 2005, quy định về các nguyên tắc cơ bản của BLDS cũng có nhiều sửa đổi. Theo đó, quyền tự do, bình đẳng của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự là định hướng chủ đạo đối với những sửa đổi về cả kết cấu và nội dung của các nguyên tắc.

1. Kết cấu quy định về các nguyên tắc cơ bản trong BLDS năm 2015

a) Những thay đổi về số lượng và vị trí các nguyên tắc

Trong BLDS năm 2005, Chương II của Phần thứ nhất (Những quy định chung) có tên gọi “Những nguyên tắc cơ bản” bao gồm mười điều luật (từ Điều 4 đến Điều 13) quy định về các nguyên tắc cơ bản của BLDS. Theo đó, các nguyên tắc được liệt kê trong Chương II gồm có: Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (Điều 4); Nguyên tắc bình đẳng (Điều 5); Nguyên tắc thiện chí, trung thực (Điều 6); Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (Điều 7); Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp (Điều 8); Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự (Điều 9); Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 10); Nguyên tắc tuân thủ pháp luật (Điều 11); Nguyên tắc hòa giải (Điều 12) và Điều 13 quy định về căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự.

BLDS năm 2015 không dành nguyên một Chương để quy định về các nguyên tắc cơ bản như cách quy định trong BLDS năm 2005. Thay vào đó, Điều 3 của Chương 1 (Những quy định chung) thuộc Phần thứ nhất (Quy định chung) với tên gọi “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự” đã quy định năm khoản tương ứng với năm nguyên tắc được áp dụng điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự. Cụ thể: Khoản 1 quy định về sự bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với cá nhân, pháp nhân; Khoản 2 quy định về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền nghĩa vụ dân sự của cá nhân, pháp nhân trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; Khoản 3 quy định về yêu cầu thiện chí, trung thực đối với cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự; Khoản 4 quy định về yêu cầu không xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác trong quan hệ dân sự và Khoản 5 quy định về yêu cầu tự chịu trách nhiệm của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự.

Như vậy, so với BLDS năm 2005, nội dung về các nguyên tắc cơ bản được rút gọn hơn trong BLDS năm 2015, từ một Chương thành một Điều luật. Theo đó, số lượng các nguyên tắc cũng giảm hơn, còn năm nguyên tắc. Một số nguyên tắc đã được loại bỏ ra khỏi các quy định trong phần này (bao gồm: nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự; nguyên tắc tuân thủ pháp luật, nguyên tắc hòa giải và nội dung về căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự). Những nguyên tắc còn giữ lại cũng có một số thay đổi nhất định về thứ tự quy định (cụ thể: nguyên tắc bình đẳng được sắp xếp đầu tiên (Khoản 1), sau đó đến nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận (Khoản 2), nguyên tắc thiện chí, trung thực (Khoản 3), nguyên tắc tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác (Khoản 4) và cuối cùng là nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự (Khoản 5)). Bên cạnh những thay đổi về số lượng, trật tự sắp xếp thì nội dung của các nguyên tắc cũng không giữ nguyên mà có một số thay đổi.

b) Những thay đổi về nội dung các nguyên tắc

Những nguyên tắc cơ bản hiện được quy định tại Điều 3 của BLDS năm 2015, so với những nguyên tắc tương ứng trong BLDS năm 2005, có một số thay đổi nhất định về nội dung. Sự thay đổi này là biểu hiện rõ nét nhất của định hướng đảm bảo quyền tự do, bình đẳng của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự. Cụ thể là:

Về chủ thể: các nguyên tắc ghi nhận rất rõ chủ thể được điều chỉnh bởi các nguyên tắc là “cá nhân, pháp nhân”, ngoài ra, không đề cập về các chủ thể khác. Đây là sự thay đổi căn bản vì cách quy định khi nói tới nội dung này trong BLDS năm 2005 là: “các bên”,  “cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác”.

Về phạm vi: các nguyên tắc cơ bản trong BLDS năm 2015 rất nhất quát trong quy định về phạm vi áp dụng đối với các chủ thể của quan hệ dân sự là việc “xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Nội dung này chỉ được quy định trong BLDS năm 2005 qua các phạm vi: “trong việc xác lập”, “trong việc xác lập, thực hiện” quyền nghĩa vụ dân sự. Như vậy, cách quy định của BLDS năm 2005 vừa không nhất quán, vừa không đầy đủ, so với nội dung tương ứng trong BLDS năm 2015.

Về một số thay đổi khác: một số nội dung trong các nguyên tắc được ghi nhận trong BLDS năm 2015 sử dụng cách diễn đạt dưới dạng câu chủ động, thay cho dạng diễn đạt bị động trong BLDS năm 2005 (ví dụ như: Điều 4 BLDS năm 2005 quy định: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm…”, trong khi đó, Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận…”). Một số thuật ngữ trong nội dung các nguyên tắc được sửa đổi, bổ sung so với quy định tương ứng tại BLDS năm 2005 (ví dụ như: tên của Chương II trong BLDS năm 2005 là “Những nguyên tắc cơ bản” nhưng Điều 3 của BLDS năm 2015 quy định rõ là: “Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự”; Điều 10 của BLDS năm 2005 yêu cầu không được xâm phạm đến “lợi ích của Nhà nước” nhưng Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015 sửa đổi là không được xâm phạm đến “lợi ích quốc gia, dân tộc”).

Những thay đổi về số lượng, vị trí, nội dung của quy định về các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự trong BLDS năm 2015 đều hàm chứa những ý nghĩa nhất định và là kim chỉ nam định hướng cho các hoạt động giao lưu dân sự trên thực tế.

2. Ý nghĩa của các nguyên tắc cơ bản quy định trong BLDS năm 2015

a) Nội dung của các nguyên tắc

Các nguyên tắc của pháp luật dân sự quy định trong BLDS năm 2015 nhất quán hướng tới việc tạo hành lang pháp lý ghi nhận và bảo hộ tính chất bình đẳng, tự do, tự nguyện, thỏa thuận cũng như tính chất tự chịu trách nhiệm đối với các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống xã hội.

Thứ nhất, trong nội dung của các nguyên tắc, BLDS năm 2015 đã loại bỏ các chủ thể khác ra khỏi quan hệ dân sự và chỉ ghi nhận hai chủ thể là cá nhân và pháp nhân. Cách quy định này định hướng rõ tầm quan trọng và khẳng định vai trò của cá nhân, pháp nhân là chủ thể được bảo hộ trong các hoạt động xác lập, thực hiện và chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự.

Thứ hai, để đảm bảo đúng tính chất của các nguyên tắc là sự định hướng cho các quy định pháp luật, các nguyên tắc hiện tại phản ánh sự “kết tinh” đầy đủ và ngắn gọn các yếu tố chỉ đạo, thể hiện chính xác bản chất của quan hệ dân sự, theo đó:

(a) cá nhân, pháp nhân được đối xử và bảo hộ bình đẳng, không có sự phân biệt.[1] Nguyên tắc này xác định sự đảm bảo yêu cầu bình đẳng giữa các cá nhân (không phân biệt dựa trên các yếu tố khác biệt như giới tính, dân tộc, trình độ văn hóa…); giữa các pháp nhân (không phân biệt giữa các loại pháp nhân, căn cứ trên các yếu tố tài sản, lĩnh vực hoạt động, phạm vi hoạt động…); giữa cá nhân và pháp nhân (không phân biệt đối xử trong các quan hệ có các bên chủ thể bao gồm cả pháp nhân và cá nhân, đặc biệt đối với trường hợp cá nhân, pháp nhân thuộc hai phía đối lập nhau về quyền và lợi ích); giữa cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác (cho dù chỉ còn ghi nhận cá nhân, pháp nhân là chủ thể nhưng BLDS vẫn có một số quy định liên quan đến hộ gia đình, tổ hợp tác ở những nội dung cụ thể nên vẫn cần xác định yêu cầu bình đẳng giữa các chủ thể); giữa cá nhân, pháp nhân và Nhà nước (tuy cũng là một loại pháp nhân nhưng cơ quan Nhà nước mang những đặc điểm đặc trưng, là bộ máy mang quyền lực thực hiện quản lý, vận hành các hoạt động của quốc gia; do đó, trong quan hệ dân sự, cần xác định yếu tố bình đẳng là yêu cầu quan trọng, để tránh việc quyền lực công được áp dụng để tạo ra sự đối xử không bình đẳng về quyền, nghĩa vụ dân sự trong các quan hệ dân sự có sự tham gia của chủ thể Nhà nước);

(b) cá nhân, pháp nhân được tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.[2] Nguyên tắc này xác định sự đảm bảo yếu tố tự do của cá nhân, pháp nhân (được thể hiện thông qua việc không trực tiếp  hạn chế trái pháp luật các quyền và nghĩa vụ dân sự; không đưa ra các yêu cầu, điều kiện hoặc quy định gián tiếp hướng tới việc hạn chế quyền, nghĩa vụ dân sự của các chủ thể quan hệ dân sự); đảm bảo sự tự nguyện thỏa thuận của cá nhân, pháp nhân (được thể hiện thông qua việc vừa không tạo ra đồng thời vừa quy định những chế tài áp dụng đối với sự ép buộc, đe dọa, giả tạo tác động tới việc thể hiện ý chí một cách tự nguyện của chủ thể quan hệ dân sự);

(c) cá nhân, pháp nhân được yêu cầu phải thiện chí, trung thực khi xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.[3] Nguyên tắc này xác định sự đảm bảo đối với các quan hệ dân sự sẽ được “vận hành” trên tinh thần hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên. Trên cơ sở đó, việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quan hệ dân sự nếu không đảm bảo sự thiện chí, trung thực của các chủ thể sẽ đứng trước khả năng không được công nhận hoặc phải gánh chịu những chế tài tương ứng.

Ngoài ra, các nguyên tắc cũng đặt ra yêu cầu cơ bản đối với quan hệ dân sự là: (i) không xâm phạm đến lợi ích chung của quốc gia, lợi ích của cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác[4]; và (ii) cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm đối với việc vi phạm nghĩa vụ của chính họ.[5] Yêu cầu không xâm phạm đến các quyền, lợi ích cần được tôn trọng là sự bảo đảm thực sự đối với sự tự do của các chủ thể trong quan hệ dân sự. Bởi vì tự do không đồng nghĩa với tùy tiện, khi tôn trọng các chủ thể khác cũng chính là nhận được sự tôn trọng đối với quyền tự do của bản thân mình. Ngoài ra, nhóm các lợi ích cần được tôn trọng được ghi nhận trong nguyên tắc cơ bản thực sự hợp lý, đặc biệt là sự thay đổi giữa quy định về tôn trọng lợi ích Nhà nước thành tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc.

Chính sự thay đổi này cũng phản ánh thêm khía cạnh bảo đảm quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử với mọi cá nhân, pháp nhân (vì lợi ích quốc gia, dân tộc cũng chính là những lợi ích chung của toàn xã hội, như lợi ích cộng đồng; trong khi, lợi ích của Nhà nước, nếu xét từ phân tích về Nhà nước với góc độ là hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước, có tư cách pháp nhân, không thể được ưu tiên hơn lợi ích chính đáng của các chủ thể khác).

Yêu cầu các chủ thể tự chịu trách nhiệm khi không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự cũng thể hiện sự đảm bảo thực chất đối với quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận và yêu cầu thiện chí, trung thực của các chủ thể. Bởi vì sự xác lập quan hệ dân sự phụ thuộc vào ý chí của các cá nhân, pháp nhân, tuyệt đối không có yếu tố cưỡng ép, đe dọa, lừa dối dưới bất kỳ hình thức nào thì khi các chủ thể vi phạm chính sự thỏa thuận của mình, họ phải tự gánh chịu các hậu quả pháp lý tương ứng mà không thể đổ lỗi hay chuyển trách nhiệm cho người khác.

Như vậy, sự quy định về các nguyên tắc cơ bản trong BLDS năm 2015 (và sự loại bỏ những nguyên tắc không thực sự phản ánh tính chất của các quan hệ dân sự và mang đặc trưng của nguyên tắc pháp luật) đã thể hiện rõ nét định hướng đảm bảo quyền tự do, bình đẳng của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ dân sự nói chung.

b) Sự thể hiện qua các chế định cụ thể trong BLDS năm 2015

Quyền tự do, bình đẳng của cá nhân, pháp nhân (định hướng, ghi nhận và đảm bảo qua hệ thống nguyên tắc cơ bản) được thể hiện rõ nét thông qua chế định sở hữu. Theo đó, sự phản ánh nội dung này một cách đặc trưng có thể xem xét trên các quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền; quy định về bảo vệ quyền và quy định về hình thức sở hữu hoặc trên các quy định liên quan đến quyền nhân thân, về các chủ thể đặc biệt hay trong chế định đại diện đã được sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn. Nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu có quy định:

“Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” (Khoản 2 Điều 160 BLDS năm 2015).

Như vậy, cá nhân, pháp nhân hoàn toàn được tự do thể hiện sự tự nguyện đưa tài sản vào các giao lưu dân sự hoặc thực hiện các hành vi khác đối với tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình. Ngoài giới hạn về tôn trọng các lợi ích cần thiết, Điều luật không liệt kê bất kỳ danh sách các hành vi nào được thực hiện hay nhóm các hành vi vào những cách gọi tên bắt buộc.[6] Quyền sở hữu còn được đảm bảo rằng không thể “bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật”[7] và khi bị xâm phạm thì chủ sở hữu “có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật”[8].

Các quy định này thể hiện rõ bản chất tự do sở hữu không trái pháp luật của cá nhân, pháp nhân. Sự tự do thể hiện không chỉ qua các hành vi không bị hạn chế như vừa phân tích mà còn thể hiện qua sự không giới hạn về đối tượng sở hữu (số lượng, giá trị…); không thể bị xâm phạm mà không được pháp luật can thiệp bảo hộ; các phương thức bảo vệ quyền sở hữu được thực hiện như thế nào, có thực hiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của chính chủ sở hữu. Dưới góc độ hình thức sở hữu, sở hữu riêng là một hình thức mới được quy định trong BLDS năm 2015.[9] Điều 205 BLDS năm 2015 quy định:

“1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân. 2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”.

Quy định này về hình thức sở hữu riêng góp phần khẳng định thêm yếu tố đảm bảo quyền tự do, bình đẳng của cá nhân, pháp nhân thể hiện trong chế định sở hữu.

Chế định giao dịch dân sự, hợp đồng cũng thể hiện sự đảm bảo tự do, bình đẳng, đặc biệt thông qua các quy định mới được sửa đổi, bổ sung của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005. Điểm nhấn đáng lưu ý nhất ở đây là quy định về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến hình thức của giao dịch và vấn đề điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Cụ thể, Điều 129 BLDS năm 2015 quy định khi vi phạm điều kiện về hình thức (như phải được xác lập dưới hình thức văn bản, phải được công chứng, chứng thực văn bản ) thì giao dịch đó vẫn được Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực khi “có yêu cầu của một hoặc các bên” và “các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”.[10]

Quy định được sửa đổi này của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 (giao dịch dân sự vô hiệu khi vi phạm điều kiện về hình thức của giao dịch) phản ánh yêu cầu tôn trọng sự tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên đương sự.

Bởi vì, xét về bản chất, hình thức không phải chính là ý chí của các bên mà chỉ là biểu đạt ý chí qua một phương tiện nhất định  (như lời nói, hành vi, văn bản). Do đó, nếu phương tiện biểu đạt lại quyết định hủy bỏ kết quả của sự thỏa thuận, tự nguyện cam kết của các bên thì ở góc độ nhất định, có thể hiểu tương ứng với sự không coi trọng, thậm chí là coi nhẹ ý chí của các bên. Chính vì vậy, cho dù hình thức của văn bản chưa được các bên tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật nhưng các bên thực sự đã thống nhất ý chí, hoàn toàn tự nguyện và đã thực hiện theo sự thống nhất đó thì không nên áp đặt sự vô hiệu, chấm dứt hiệu lực đối với giao dịch dân sự họ đã xác lập. Điều 420 BLDS năm 2015 lần đầu tiên quy định về vấn đề thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Theo đó, tuy hợp đồng đã phát sinh hiệu lực pháp luật nhưng khi một số sự kiện khách quan xảy ra trên thực tế (đã được pháp luật quy định cụ thể) thì bên có lợi ích bị ảnh hưởng trong hợp đồng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán để thay đổi nội dung đã thỏa thuận hoặc các bên có thể yêu cầu Tòa án chấm dứt hợp đồng hay sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên.[11] Không chỉ có ý nghĩa về học tập kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới (hầu hết đều quy định về trường hợp điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi), quy định này cụ thể hóa nguyên tắc tự do, thiện chí, bình đẳng, tự nguyện, thỏa thuận một cách hài hòa và hợp lý.

Có thể nói, hợp đồng, sau khi đã phát sinh hiệu lực, cần thiết phải được tôn trọng và thực hiện theo thỏa thuận, việc thay đổi các thỏa thuận hoặc không thực hiện các thỏa thuận (thiếu sự thống nhất của các bên) cần được xác định là vi phạm sự tự nguyện giao kết, thể hiện sự bội ước của bên vi phạm. Tuy nhiên, quy định điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cần được tiếp cận là một ngoại lệ của trường hợp đó và thể hiện rõ nét yếu tố thiện chí, bình đẳng giữa các bên. Bởi lẽ tuy hợp đồng đã có hiệu lực là “bất di bất dịch” đối với các bên đã cam kết, tuy nhiên, hợp đồng được hình thành xuất phát chính là từ mục đích đem đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên giao kết.

Chính vì vậy, hợp đồng không thể tùy tiện thay đổi nhưng nếu trên thực tế phát sinh các sự kiện pháp lý ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của một hoặc các bên trong hợp đồng mà họ vẫn bị “trói cứng” vào các thỏa thuận khi chưa xảy ra các sự kiện đó thì bản chất lại chính là sự không đảm bảo yếu tố thiện chí, hợp tác, bình đẳng và tự do của các chủ thể trong giao lưu dân sự.

Bồi thường thiệt hại cũng là một chế định điển hình phản ánh yếu tố đảm bảo quyền tự do, bình đẳng của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự được khẳng định từ các nguyên tắc cơ bản. Theo BLDS năm 2005, việc bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ sở thiệt hại thực tế xảy ra, như quy định tại Điều 605 là “thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ”.

BLDS năm 2015 đã đưa ra một định hướng đầy mới mẻ khi bổ sung bên cạnh yêu cầu bồi thường dựa trên thiệt hại thực tế là quy định cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm có thể thực hiện việc bồi thường theo thỏa thuận của các bên (Điều 13 và Điều 585 BLDS năm 2015).[12] Có thể nói, quyền tự do, tự nguyện và bình đẳng giữa các chủ thể chính là nền tảng cơ bản để xây dựng quy định này. Nói cách khác, trừ những thỏa thuận trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự có thể tự do, tự nguyện thỏa thuận bất kỳ nội dung gì trên tinh thần bình đẳng về quyền và lợi ích chính đáng của các bên chủ thể.

Có lẽ điểm nổi bật nhất trong những thay đổi trong các quy định về quyền nhân thân, tác động mạnh mẽ đến xã hội chính là sự ghi nhận việc người chuyển giới được “đăng ký thay đổi hộ tịch” và “có quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi” (Điều 37). Thực tế cho thấy, nhóm người LGBT[13] trong xã hội khi tham gia vào các quan hệ dân sự, hầu như không được đảm bảo bình đẳng như các chủ thể khác. Xét riêng trong các quan hệ nhân thân, những quyền hợp pháp của họ đối với hình ảnh, danh dự, nhân phẩm, tuy không có sự phân biệt theo quy định của pháp luật nhưng đều không được đảm bảo trọn vẹn trong xã hội.

Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất mà chính quy định của pháp luật cũng tạo ra rào cản đó là khi những cá nhân thuộc nhóm LGBT muốn chuyển đổi giới tính hoặc đã chuyển đổi giới tính và muốn được ghi nhận lại các “thông tin” của mình thì hầu như là không thể. Chẳng hạn, việc thay đổi họ tên, thay đổi giới tính ghi trong các giấy tờ tùy thân của những người này là không thể vì các căn cứ để thay đổi các thông tin này trong BLDS năm 2005 đều không đề cập đến trường hợp được áp dụng là nhóm người đã thực hiện việc chuyển đổi giới tính. Sự thay đổi quy định trong BLDS năm 2015, rõ ràng, được xây dựng trên nền tảng bảo đảm sự bình đẳng cần có giữa các cá nhân, không phân biệt đối xử dựa trên tình trạng của tâm lý hay cơ thể có những yếu tố khác biệt.

Sự bình đẳng thực sự đối với các cá nhân còn được thể hiện thông qua quy định hoàn toàn mới về các cá nhân có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (Điều 23). Bình đẳng không bao giờ có nghĩa là cào bằng, là giống hệt nhau giữa các chủ thể khác nhau. Nguyên tắc ấy một lần nữa được thể hiện trong quy định về nhóm cá nhân này. Theo BLDS năm 2005, năng lực hành vi dân sự chỉ chia thành các trường hợp: không có, có một phần, có đầy đủ. Trong đó, ở độ tuổi đáng nhẽ được xác định là có đầy đủ nhưng do những nguyên nhân như mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến tình trạng không nhận thức và làm chủ hành vi; nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn tới phá tán tài sản gia đình; có yêu cầu đối với Tòa án thì các cá nhân ấy có thể rơi vào trường hợp mất năng lực hành vi dân sự (hoàn toàn chỉ được tham gia các giao dịch dân sự thông qua người đại diện) hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự (trừ ngoại lệ về loại giao dịch cụ thể, các giao dịch khác liên quan đến tài sản cũng phải thực hiện khi có sự tham gia của người đại diện).

Trong thời gian vừa qua, có một thực tế cho thấy, có những cá nhân không hoàn toàn mất năng lực hành vi dân sự (cũng không thuộc trường hợp hạn chế) nhưng sự nhận thức và làm chủ hành vi của những chủ thể này lại không ổn định, ví dụ như người già nhớ nhớ quên quên. Khi các cá nhân này đang trong tình trạng không hoàn tòa nhận thức và làm chủ được hành vi của mình mà lại xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự thì có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của chính họ hoặc của người khác. Trong khi đó, quy định riêng cho nhóm người này chưa được rõ ràng trong BLDS năm 2005. Do đó, thực trạng này ảnh hưởng không nhỏ tới quyền tự do cũng như sự bình đẳng của các chủ thể. Việc bổ sung quy định tại BLDS năm 2015 đã hướng tới sự đảm bảo yếu tố tự do, bình đẳng thực chất của các chủ thể.

Quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể, đặc biệt là đối với pháp nhân còn được phản ánh rõ nét thông qua sửa đổi tại BLDS năm 2015 về khái niệm đại diện. Theo Điều 134 BLDS năm 2015, “đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân, pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự…”. Quy định này đã giải quyết được tranh cãi về “bất bình đẳng” có hay không trong quy định về đại diện của BLDS năm 2005 đối với pháp nhân khi đai diện được quy định tại Điều 39 là “một người” mà không nói rõ “người” chỉ là cá nhân hay bao gồm cả pháp nhân, với ý nghĩa phân biệt với các đối tượng của quan hệ dân sự như tài sản, công việc.

Nói tóm lại, các nguyên tắc của BLDS năm 2015 cũng như sự tác động của chúng tới các chế định cụ thể trong bộ luật có nhiều điểm đổi khác so với BLDS năm 2005. Đánh giá chung đối với các nội dung đổi khác này là sự tiến bộ, hợp lý và tập trung vào các yếu tố trọng tâm trong quan hệ pháp luật dân sự. Sự sửa đổi này sẽ có những tác dụng tích cực tới các hoạt động chịu sự điều chỉnh của các quy phạm tương ứng trong đời sống xã hội.

[1] Khoản 1 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”.

[2] Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”.

[3] Khoản 3 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực”.

[4] Khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

[5] Khoản 5 Điều 3 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”.

[6] Theo một số chuyên gia, nội hàm của quyền sở hữu không chỉ bó hẹp trong ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt bởi có những hành vi cũng thể hiện việc thực hiện quyền sở hữu nhưng không thể xếp vào nhóm nào. Ví dụ như: việc thay đổi màu sơn của đồ vật là hành vi hoàn toàn được phép của chủ sở hữu nhưng khó gọi tên đó là sự thể hiện của quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt. Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu giải quyết vấn đề này trên định hướng: trừ những lợi ích không được xâm phạm, chủ sở hữu có thể thực hiện bất kỳ hành vi gì mà họ muốn đối với tài sản của họ. Như vậy, sự tự do của chủ sở hữu được mở rộng tối đa và sự tự nguyện của chủ thể được khẳng định sự ghi nhận, bảo hộ.

[7] Khoản 1 Điều 163 BLDS năm 2015.

[8] Khoản 1 Điều 164 BLDS năm 2015.

[9] Trong BLDS năm 2005, hình thức sở hữu được phân chia dựa trên sự phân loại chủ sở hữu (gồm có: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề nghiệp). Việc phân chia này đã nhận được nhiều sự không đồng tình vì phân loại chủ sở hữu không là căn cứ hợp lý để phân loại hình thức sở hữu, thêm vào đó, có những loại sở hữu không thể xếp vào bất kỳ hình thức sở hữu nào (ví dụ: sở hữu của pháp nhân là tổ chức kinh tế). Tiếp thu những ý kiến đóng góp, hiện nay, BLDS năm 2015 chỉ còn ghi nhận có ba hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.

[10] Điều 129 “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức” quy định: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: 1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó; 2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện it nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

[11] Điều 420 “Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản” quy định: “1.Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng; b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh; c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác; d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên; đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích. 2. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. 3. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án: a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định; b) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi. 4. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

[12] Điều 13 “Bồi thường thiệt hại” quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”, Khoản 1 Điều 585 “Nguyên tắc bồi thường thiệt hại” quy định: “1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

[13] LGBT là viết tắt của các chữ cái Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đông tính nam), Bisexual (song tính và Transgender (chuyển giới). Những cá nhân thuộc nhóm này thường được gọi chung là có xu hướng tình dục đồng tính để phân biệt với số đông cá nhân có xu hướng tình dục dị tính.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon