Phân tích quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con sau ly hôn

phan-tich-quyen-va-nghia-vu-cham-soc-nuoi-duong-giao-duc-con-sau-ly-hon

Sau khi ly hôn, quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ đối với con cái là không thay đổi. Cả cha và mẹ đều có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng con, nhưng sau khi ly hôn, con chỉ được sống với cha hoặc mẹ nên người còn lại không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con có một số quyền và nghĩa vụ đặc thù. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của cha mẹ sau ly hôn.

Căn cứ pháp lý:

– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

– Luật Trẻ em năm 2016;

1. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con sau ly hôn

1.1. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng

Trẻ em luôn là đối tượng cần được nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển đầy đủ về thể chất, điều này không chỉ được Hiến pháp mà tại các văn bản quy phạm pháp luật trong nước cũng như những điều ước, công ước quốc tế ghi nhận và quy định cụ thể.

Điều 15, 16 Luật Trẻ em có quy định:

“Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện.

Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, tri tuệ, tinh thần và đạo đức”

Khoản 1 Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình có quy định:

“Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”.

Sau khi vợ chồng ly hôn, hai bên không thể cùng nhau thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng con mà giao lại cho người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ thực hiện. Người không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con lúc này chỉ có thể thực hiện quyền thăm nom và cấp dưỡng nuôi con.

Do đó, mặc dù không còn chung sống cùng nhau nhưng nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con vẫn được đặt ra cho cả hai bên, tuy nhiên, người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con vẫn có ưu thế hơn khi mà tự mình chăm lo cho cuộc sống hàng ngày của con.

1.2. Nghĩa vụ và quyền giáo dục con

Bên cạnh việc cần được nuôi dưỡng về thể chất, trẻ cũng cần được chăm sóc, giáo dục về tinh thần. Điều 72 Luật hôn nhân và gia đình đã quy định:

“1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con.

2. Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con.

3. Cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được”.

Điều này là phù hợp với Khoản 1 Điều 16 Luật Trẻ em: “Trẻ em có quyền được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân” và Khoản 2 Điều 99 Luật Trẻ em: “Cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập, hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập theo quy định của pháp luật; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn”. Hơn thế nữa, giáo dục trẻ em không chỉ là nghĩa vụ của cha, mẹ mà còn là sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

Tuy nhiên khi cha, mẹ ly hôn, có nhiều những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ. Đầu tiên, đó là sự xáo trộn, thay đổi tâm lý, tính cách và tinh thần học tập ở trẻ. Chủng có thể rơi vào trạng thái mặc cảm, xấu hổ với bạn bè nên sẽ trốn học, không muốn đến lớp. Hoặc khi cha, mẹ ly hôn, trẻ có thể sẽ theo một trong hai bên đến sống ở một ngôi nhà mới, thay đổi trường lớp, xa những người bạn cũ, sự thay đổi này cũng gây tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của trẻ.

Tổn thương khi cha, mẹ chia tay và môi trường mới lạ lẫm dễ khiến trẻ tự thu mình lại, khó hòa nhập, mặc cảm, không còn dành nhiều tâm trí cho việc học tập, giao tiếp cùng bạn bè, thầy cô. Có thể nói, người trực tiếp nuôi con là người chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý, giáo dục trẻ, uốn nắn và rèn luyện nhân cách cho trẻ; đồng thời, khi giao con cho người nào trực tiếp nuôi thì cần cân nhắc, xem xét tới khả năng đáp ứng các yêu cầu được học tập, giáo dục một cách toàn diện, đầy đủ cho trẻ.

2. Quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn

2.1. Quyền thăm nom, chăm sóc con

Khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định:

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

Thăm nom con là quyền cơ bản của người không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con. Đối với một đứa trẻ, việc phải sống xa cha hoặc mẹ đều là thiệt thòi rất lớn nhưng dù trẻ muốn hay không thì sau khi ly hôn, đứa trẻ chỉ được sống cùng một người. Đang trong độ tuổi vị thành niên, trẻ cần sự dạy dỗ, dìu dắt của cha lẫn sự chăm sóc, ân cần dỗ dành của mẹ, bất kể thiếu mẹ hay cha thì về mặt tinh thần của trẻ đều có sự thiếu hụt, phát triển lệch lạc, dễ khiến trẻ thiếu tự tin, trầm cảm và khó hòa nhập.

Do đó, pháp luật đã quy định quyền thăm nom như một phương thức bù đắp cho trẻ đối với những khuyết thiếu, trống trải đó. Quy định này đã tạo điều kiện cho con được hưởng tình yêu thương của cả cha và mẹ, đồng thời, tạo cơ hội cho trẻ thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc với người không trực tiếp sống cùng mình.

Còn đối với người không trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con thì quyền thăm nom làm vơi đi phần nào nỗi nhớ con, nỗi buồn và day dứt vì cảnh chia lìa làm con thiếu thốn tình cảm gia đình; giúp họ nắm được tình hình cuộc sống của trẻ, việc học hành của trẻ, tâm sự và chia sẻ với trẻ và đôi khi là giải quyết những khúc mắc, những vấn đề mà trẻ gặp phải trong cuộc sống mà người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ không làm được.

Quyền thăm nom con chỉ được tôn trọng và duy trì xuất phát từ lợi ích của con, cũng là quyền nhân thân của người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con, không ai được cản trở họ và dù là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con hay những người họ hàng, người thân, người có liên quan khác cũng đều phải tôn trọng quyền này. Mặt khác, nếu quyền này bị người không trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con lợi dụng cản trở, gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì pháp luật sẽ hạn chế quyền này của họ.

Trong nhiều trường hợp, người không trực tiếp nuôi con lợi dụng quyền thăm nom để phá hoại, gây ảnh hưởng xấu đến người trực tiếp nuôi con, mặc dù không ảnh hưởng nhiều đến việc chăm sóc, giáo dục con của người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con nhưng điều đó cũng thể hiện, họ không phải là người cha, người mẹ tốt. Việc làm của họ dễ khiến trẻ bị tiêm nhiễm những suy nghĩ lệch lạc, không phù hợp, gây cản trở cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con. Vì vậy, trong trường hợp này, pháp luật hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con để đảm bảo cuộc sống ổn định cho trẻ là điều cần thiết.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con

Trách nhiệm của cha, mẹ khi sinh ra đứa con là phải nuôi dưỡng trẻ, bất kể hai bên có còn là vợ chồng hay đã chấm dứt quan hệ hôn nhân. Sau khi ly hôn, cha, mẹ không sống cùng nhau hay sống cùng con dưới một mái nhà, đồng nghĩa với việc không cùng chăm sóc, dạy dỗ đứa trẻ, trao lại trách nhiệm trực tiếp nuôi con cho một người.

Việc nuôi con một mình không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là với những người mới ly hôn, do đó, sẽ gặp nhiều khó khăn, đôi khi trở thành gánh nặng cho người trực tiếp nuôi con. Nếu nói thăm nom con là để bù đắp sự thiếu thốn tình cảm cho trẻ về mặt tinh thần thì việc cấp dưỡng nuôi con là sự đóng góp để đảm bảo nhu cầu tối thiểu về mặt vật chất cho trẻ. Khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình đã quy định rõ: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”.

Điều đó cho thấy, cấp dưỡng là một nghĩa vụ mà luật quy định cho người không trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn, quan hệ pháp lý giữa cha, mẹ và con không thay đổi, người không trực tiếp nuôi con phải thực hiện trách nhiệm của mình dù muốn hay không. Trường hợp thực hiện nghĩa vụ về tình cảm, pháp luật không thể dùng các biện pháp cưỡng chế để buộc một người thi hành được thì ngược lại, vẫn có thể có những quy định buộc họ thực hiện nghĩa vụ về vật chất.

Cấp dưỡng nuôi con khi cha, mẹ ly hôn có thể hiểu là việc người không trực tiếp nuôi con đóng góp tiền hoặc tài sản để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của con chưa thành niên. Sau khi ly hôn, một người sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc con và chắc chắn, việc nuôi dưỡng con sẽ gặp những khó khăn, xáo trộn nhất định. Vì lẽ đó, đóng góp vật chất để nuôi con là điều cần thiết, không chỉ để đảm bảo duy trì cuộc sống ổn định cho con mà còn thể hiện phần nào tinh thần trách nhiệm của cha, mẹ. Đây vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của người không trực tiếp nuôi con.

Dù đây là nghĩa vụ, tuy nhiên không phải lúc nào người không trực tiếp nuôi con cũng phải thực hiện nghĩa vụ này:

+ Trường hợp thứ nhất, đó là người trực tiếp nuôi con có khả năng tự đảm bảo cuộc sống ổn định, chăm lo được cho các quyền lợi về vật chất cho con và tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng.

+ Trường hợp thứ hai, đó là việc người không trực tiếp nuôi con không có khả năng cấp dưỡng.

Mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng được thực hiện trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.

Như vậy, bài viết trên đây đã phân tích rõ về quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của cha mẹ sau ly hôn. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.

Hotline
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon