Ma túy và tệ nạn ma túy là tác nhân làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, tàn phá cuộc sống yên vui của nhiều gia đình, gây xói mòn đạo lý xã hội, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định của một quốc gia và là tác nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh HIV/AIDS phát triển. Do đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy ngày càng được đẩy mạnh và tăng cường. Bài viết dưới đây sẽ đi vào phân tích về tội tàng trữ và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, từ đó phân biệt về hai loại tội phạm này.
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015).
– Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP.
1. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.
Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội tàng trữ trái phép chất ma túy bao gồm 4 yếu tố khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Bốn yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tồn tại trong một thể thống nhất:
– Mặt khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy:
Các tội phạm này xâm phạm chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy. Đối tượng tác động của tội phạm: là các chất ma túy.
– Mặt khách quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy:
Hành vi khách quan của các tội này là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ bị coi là tội phạm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
+ Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam; – Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
+ Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
+ Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
+ Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
+ Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;
+ Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililit đến dưới 100 mililít; + Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản 1 Điều 249 BLHS.
Tội phạm được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp nêu trên.
– Mặt chủ quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
+ Lỗi: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
+ Mục đích của tội phạm: Mục đích phạm có ý nghĩa quan trọng trong định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma túy bởi lẽ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ có thể phạm tội này nếu không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma tủy. Nếu tàng trữ trái phép chất ma túy mà nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy thì sẽ bị xử lý hình sự về các tội tương ứng như: tội mua bán trái phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy hay tội sản xuất trái phép chất ma túy.
– Mặt chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy:
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
2. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi cố ý của chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định thực hiện hành vi chỉ huy. phân công điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác hoặc chỉ huy phân công điều hành việc chuẩn bị địa điểm tìm người sử dụng trái phép chất ma túy, cung cấp chất ma túy, phương tiện dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác.
Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bao gồm 4 yếu tố khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Bốn yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tồn tại trong một thể thống nhất:
– Mặt khách thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
+ Khách thể trực tiếp của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về việc sử dụng các chất ma túy. Ngoài ra, hành vi phạm tội còn xâm hại đến các quan hệ xã hội khác như tính mạng, sức khỏe của con người, đồng thời còn làm gia tăng tệ nạn nghiên hút ma túy, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
+ Đối tượng tác động của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là các chất ma túy và các phương tiện, vật dụng phục vụ cho việc sử dụng trái phép chất ma túy.
– Mặt khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
Hành vi khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có thể bao gồm một trong các hành vi sau đây:
– Chỉ huy phân công điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
– Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy, thông qua các hành vi sau:
+ Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị cung cấp chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào như mua, xin, tàng trữ, sản xuất, nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
+ Chỉ huy, phân công, điều hành việc cung cấp chất ma túy (trừ hành vi bản trái phép chất ma túy) dưới bất kỳ hình thức nào cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma tuý;
+ Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm) thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
– Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…) nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác.
– Chỉ huy, phân công, điều hành việc tìm người sử dụng chất ma túy để người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể họ.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là những thiệt hại gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể được luật hình sự bảo vệ, trong đó khách thể trực tiếp bị gây thiệt hại là chế độ quản lý Nhà nước về chất ma túy, là trật tự an toàn xã hội, ngoài ra còn có thể gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của chính người sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, hậu quả nói trên không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện một trong các hành vi như phân tích trên.
– Mặt chủ quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy:
+ Lỗi: Lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm thấy rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và bị pháp luật cấm thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đỏ và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. + Mục đích của người thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là nhằm đưa chất ma túy một cách trái phép vào cơ thể người khác. Nếu không chứng minh được mục đích của người phạm tội là nhằm đưa chất ma túy trái phép vào cơ thể người khác thì không phải là phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Như vậy, mục đích nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
+ Động cơ phạm tội của người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy rất đa dạng nhưng chủ yếu là vì vụ lợi.
– Mặt chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: Chủ thể của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 255 BLHS năm 2015 là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực TNHS.
3. Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Tội tàng trữ trái phép chất ma túy | Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy | |
Cơ sở pháp lý: | Điều 249 BLHS năm 2015 | Điều 255 BLHS năm 2015 |
Mặt khách thể của tội phạm | Xâm phạm chế độ độc quyền và thống nhất quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy | |
Hành vi khách quan | Hành vi khách quan của các tội này là hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ bị coi là tội phạm nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; + Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam; – Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; + Lá cây côca; lá khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam; + Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam; + Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam; + Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam; + Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililit đến dưới 100 mililít; + Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản 1 Điều 249 BLHS. |
Hành vi khách quan của tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy có thể bao gồm một trong các hành vi sau đây:
– Chỉ huy phân công điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; – Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy, thông qua các hành vi sau: + Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị cung cấp chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào như mua, xin, tàng trữ, sản xuất, nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; + Chỉ huy, phân công, điều hành việc cung cấp chất ma túy (trừ hành vi bản trái phép chất ma túy) dưới bất kỳ hình thức nào cho người khác để họ sử dụng trái phép chất ma tuý; + Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm) thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; – Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…) nhằm sử dụng để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác. – Chỉ huy, phân công, điều hành việc tìm người sử dụng chất ma túy để người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể họ. |
Mặt chủ quan | – Thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp.
– Mục đích: Để người phạm tội sử dụng ma túy hoặc mục đích khác và không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. |
– Thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp.
– Mục đích: Mục đích của người thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là nhằm đưa chất ma túy một cách trái phép vào cơ thể người khác. |
Mặt chủ thể của tội phạm |
Người từ 16 tuổi luôn phải chịu trách nhiệm về tội tàng trữ và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. + Đối chiếu theo quy định tại Điều 9, khoản 2 Điều 12 của BLHS năm 2015 với quy định tại Điều 249, Điều 251 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 249 và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 255 BLHS năm 2015. |
Như vậy, bài viết trên đây đã làm rõ nội dung về tội tàng trữ và tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, làm cơ sở để phân biệt hai loại tội phạm này. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin bổ ích. Trường hợp có thắc mắc bạn có thể liên hệ tổng đài 19006586 để được hỗ trợ tư vấn cụ thể.